- Truyện ký - Tản văn
- Hành trình về chiến khu Đ – Dòng sông ký ức không ngủ quên
Hành trình về chiến khu Đ – Dòng sông ký ức không ngủ quên
NGUYÊN HÙNG
Giữa những tán dầu rái cổ thụ của miền Đông Nam Bộ, Chiến khu Đ hiện ra như một bản trường ca trầm hùng. Mảnh đất này từng in dấu bước chân của bao thế hệ anh hùng, nơi từng vang lên lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, và cũng là nơi gửi lại bao điều thiêng liêng nhất của một thời khói lửa.
Vào một sáng cuối tháng Tư, đoàn văn nghệ sĩ chúng tôi có dịp về thăm Chiến khu Đ theo lời mời của ông Lê Hoàng Quân – nguyên Chủ tịch UBND TP. Hồ Chí Minh, người từng nhiều năm gắn bó với vùng đất này. Khi đoàn dừng chân trước cổng rừng, ông nói khẽ: “Tôi luôn mong có những dịp được trở lại nơi này… và lần này được dẫn các bạn – những người kể tiếp câu chuyện lịch sử bằng ngôn ngữ nghệ thuật – là một điều may mắn”.

Các văn nghệ sĩ trước Đền thờ Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Địa danh đầu tiên trong hành trình là Đền thờ Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trong làn khói trầm nghi ngút, lời thề năm xưa như vẫn vang vọng giữa đại ngàn. Đứng trước tượng Võ Đại tướng, tôi bồi hồi nhớ lại những câu thơ mình đã viết khi nghe tin Người ra đi, về một vị tướng huyền thoại, một người học trò xuất sắc của Bác Hồ, vị tướng của nhân dân mà các đối thủ cũng phải nghiêng mình kính nể.
Rời ngôi đền thiêng, chúng tôi men theo con đường mòn dẫn sâu vào khu rừng, đến với Căn cứ Trung ương Cục miền Nam. Dưới tán cây dầu rái trăm tuổi, ông Quân kể: “Chính nơi này, những năm 1961–1962, Trung ương đã họp và xác lập phương châm ‘Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi’. Từ rừng mà ra, cũng từ rừng mà thắng”. Ở Căn cứ Khu ủy miền Đông gần đó, câu chuyện về Thiếu tướng Nguyễn Thị Định và loài hoa điên điển vàng rực – “loài hoa dại mà kiên cường như người Nam Bộ” – khiến nhiều người trong đoàn rưng rưng.

Di tích “Bệnh viện rừng” ở Căn cứ Trung ương Cục miền Nam.
Và rồi, trong khu rừng sâu, chúng tôi đứng lặng trước nền đất cũ của “Bệnh viện rừng”. Cô hướng dẫn viên chỉ vào chiếc cưa thợ mộc gỉ sét được lưu giữ cẩn thận, giọng xúc động: “Ngày ấy, các y bác sĩ ở đây phải mổ cho đồng đội mà không có thuốc tê. Có người bị cưa chân, vẫn cất tiếng hát Quốc ca… để át nỗi đau”. Cô lặng lặng đi một lúc rồi đọc hai câu thơ của Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ: “Bác sĩ vừa cưa vừa khóc/ Chị cứu thương mắt cũng đỏ hoe/ Nhìn ảnh Bác Hồ trên tấm vách tre/ Anh chiến sĩ cứ mải mê hát…”. Tiếng hát “Đoàn quân Việt Nam đi…” giữa cơn đau thấu xương ấy đã trở thành lời thề bất tử. Trong khoảnh khắc ấy, giữa máu và nước mắt, Tổ quốc hiện lên bằng một hình hài thiêng liêng, xúc động nhất.
Từ bệnh viện rừng, chúng tôi bước tiếp trên “Đường dây giao liên máu chảy ruột mềm”. Ở đó, chúng tôi được nghe chuyện về bà Nguyễn Thị Mười (87 tuổi) – đồng đội của Anh hùng Võ Thị Thắng. Giọng bà vui tươi, rắn rỏi: “Hồi đó tôi và Thắng bò qua bảy đồn giặc trong đêm, mỗi lần nghe tiếng súng nổ lại ôm nhau cười… sợ mà phải tỏ ra gan dạ!”. Nhưng khi kể đến lúc người đồng đội ngã xuống, bà lặng đi rất lâu. Trong lòng rừng ấy, những cô gái hai mươi tuổi đã sống, chiến đấu và hy sinh với một niềm tin giản dị mà cháy bỏng: “Nếu mình ngã xuống, đường vẫn phải thông”.

Các văn nghệ sĩ cùng ông Lê Hoàng Quân tại Căn cứ Trung ương Cục miền Nam.
Trong căn nhà truyền thống, một cụ già chỉ vào chiếc nồi đất cũ kỹ, kể về những bữa cơm đầy lá rừng. “Ngày ấy, mười người đi rừng chỉ có ba người có nồi. Nhiều khi phải nấu cơm bằng mũ sắt, ăn xong môi đen vì khét”. Họ phải trộn lá bứa, lá lộc vừng thay rau, chia nhau từng nắm cơm nhỏ bằng quả trứng. Cái đói, cái khổ không làm họ gục ngã. Trong nhật ký của một cán bộ Trung ương Cục còn ghi: “Bữa cơm giữa rừng hôm nay toàn lá đắng/ Nhưng lòng ai cũng ngọt vì niềm tin chiến thắng”.
Hệ thống hầm bí mật như “Địa đạo Củ Chi thu nhỏ” là điểm dừng chân khiến lòng người thắt lại. Ở đó, mười hai nữ du kích đã anh dũng hy sinh năm 1968. Khi bị bao vây, họ đốt tài liệu, ôm nhau hát vang “Giải phóng miền Nam” và cùng kéo chốt lựu đạn cuối cùng. Giữa rừng chiều, chúng tôi được nghe lại đoạn băng ghi âm cũ – tiếng hát của đồng đội trong lễ truy điệu. Giai điệu ấy vang lên giữa rừng già, như lời vĩnh biệt và cũng là lời khẳng định: ngọn lửa của niềm tin không bao giờ tắt.

Khi mặt trời xuống, chúng tôi dừng chân bên nấm mộ gió của những liệt sĩ vô danh. Nhà thơ Trần Mai Hường khẽ quỳ xuống, thắp nén hương và nói: “Chúng tôi đến đây bằng sự may mắn của kẻ hậu sinh, nhưng ra về mang theo món nợ thiêng liêng – nợ máu xương của những người nằm lại”. Một nhạc sĩ trong đoàn nói nhỏ: “Họ đã cho chúng ta quyền được viết, được cầm đàn và được hát giữa trời bình yên…”

Ông Lê Hoàng Quân siết tay từng người, giọng trầm ấm: “Cảm ơn các bạn đã lắng nghe và sẽ kể lại những câu chuyện này. Chính các nghệ sĩ là cầu nối để lịch sử không bao giờ ngủ quên. Chúng ta may mắn được đứng dưới bóng cây dầu rái này – nơi từng che chở bao anh hùng. Giờ đến lượt chúng ta trở thành bóng mát cho thế hệ sau”.
Trên đường trở về, rừng dầu rái vẫn lao xao trong gió, như tiếng ai đang thì thầm cùng năm tháng. Giữa mùi đất đỏ còn vương hương trầm buổi tưởng niệm, tôi chợt nhớ một nhận định thật hay về thơ Huỳnh Văn Nghệ – thi tướng của miền Đông kháng chiến: “Chiến khu Đ không chỉ là rừng cây, mà là rừng người – những con người kiên trung, bất khuất”.
Chiến khu Đ hôm nay đã bình yên trong sắc xanh mướt, nhưng mỗi tấc đất, mỗi thân cây vẫn lưu giữ hơi thở của máu và niềm tin. Đó không chỉ là hành trình của đoàn văn nghệ sĩ chúng tôi, mà còn là hành trình của trái tim – hành trình trở về với cội nguồn dân tộc, để nghe tiếng lịch sử vọng lên từ lòng đất, và để hiểu rằng: hòa bình hôm nay được đánh đổi bằng biết bao mùa xuân đã nằm lại nơi rừng xanh.
MỘT SỐ HÌNH ẢNH CHUYẾN ĐI



















Ảnh: Nguyên Hùng, Trần Đôn.