- Truyện ký - Tản văn
- Trên những nẻo đường tri ân - Ghi chép của Nguyên Hùng
Trên những nẻo đường tri ân - Ghi chép của Nguyên Hùng
Dọc dải đất miền Trung, nơi từng rung chuyển bởi đạn bom và nước mắt, vẫn còn đó những địa danh đã đi vào tâm thức dân tộc: Trường Sơn, Khe Sanh, Thành cổ Quảng Trị, sông Thạch Hãn, địa đạo Vĩnh Mốc... Mỗi tấc đất, mỗi dòng sông là một trang sử được viết bằng máu của những người lính tuổi hai mươi.
Trong hành trình “Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình”, đoàn văn nghệ sĩ TP.HCM đã dừng chân ở những nơi thiêng ấy – để thắp nén hương tri ân, để nghe tiếng đất gọi từ ngàn xưa, và để một lần nữa lặng người trước sự hy sinh vô bờ của những con người đã hóa thân vào đất mẹ, để đất nước được hồi sinh trong bình yên hôm nay.
TRÊN NHỮNG NẺO ĐƯỜNG TRI ÂN
Ghi chép của Nguyên Hùng
Giữa Trường Sơn – tiếng thì thầm của ngàn linh hồn
Mỗi chuyến trở lại Trường Sơn với tôi đều là một lần đi trong thiêng liêng.
Ngọn núi xanh xao ấy, con đường đỏ đất ấy, hàng cây và những triền dốc ấy… tất cả đều dường như biết nói, biết thở, biết rưng rưng cùng tôi.
Tôi còn nhớ như in buổi hoàng hôn đầu tiên đặt chân đến Nghĩa trang Trường Sơn – khi mặt trời đã chìm xuống phía tây dãy núi, chỉ còn vạt nắng loang trên những bia mộ lặng im. Cả không gian đượm mùi trầm, hương khói bảng lảng. Hàng hàng lớp lớp mộ chí – mỗi tấm bia là một cái tên, một năm sinh, một năm hy sinh. Nhiều ngôi mộ không tên không tuổi, chỉ có mấy chữ khô khan “Liệt sĩ chưa biết tên”, nhưng trong tôi, tất cả đều là anh, là em, là đồng đội của dân tộc này.
Tôi đã viết khi ấy, trong khoảnh khắc ấy:
Khi ngã xuống, các anh còn rất trẻ
Chưa một ngày vui, chưa một mối tình...
Các anh nằm giữa núi rừng, lặng lẽ
Vai kề vai trong đội ngũ điệp trùng
Các anh nằm giữa thương đau Đất Mẹ
Bao nỗi niềm bia đá cũng rưng rưng.
Những câu thơ viết vội trong làn sương tím, mà đến nay đọc lại vẫn khiến tim tôi run.
Vì trong hình dung, tôi thấy họ – những chàng trai mười tám, đôi mươi, bước đi giữa rừng già, mang theo nụ cười non trẻ, chưa kịp hẹn một mùa yêu. Họ nằm lại giữa rừng, vai kề vai trong đội ngũ điệp trùng, giữa những lớp đất đã hóa thành màu xương cốt. Còn Đất Mẹ – vĩ đại và bao dung – ôm trọn họ trong lòng như ôm những đứa con yêu dấu.

Trong từng khu của Nghĩa trang Trường Sơn, những hàng mộ đều tăm tắp như đội hình sẵn sàng xuất kích. Tôi thấy các anh vẫn chưa “nghỉ”, vẫn đứng trong tư thế chiến đấu, chỉ là bây giờ im lặng. Và chính sự im lặng ấy lại ngân lên thành bản trường ca bất tận – bản hùng ca của máu và hoa.
Tôi đã trở lại nơi đây nhiều lần, cùng các đồng môn, cùng bạn bè, cùng những người con của hai miền Nam – Bắc. Mỗi lần đi ngang qua nghĩa trang, tôi đều cảm thấy như có hàng ngàn ánh mắt dõi theo. Trường Sơn chưa bao giờ tắt tiếng gọi.
Về Khe Sanh – nơi đất còn giữ hơi người
Trên cung đường Đường 9 – Nam Lào, xe chúng tôi lăn bánh trong chiều sương dày. Hai bên đường, tôi hình dung “cây nhiệt đới” năm xưa chạm cả vào thùng xe, cành khua lách cách như lời chào của rừng. Tôi lại nhớ đến bài thơ mình từng viết:
Một chiều thăm lại Khe Sanh
Nghe trong ruột đất chiến tranh thét gào...
Đất ở Khe Sanh chưa bao giờ ngủ yên. Dưới lớp cỏ xanh kia, biết bao vết thương còn đang mưng máu. Tôi nghe tiếng đất vọng lên, tiếng những người lính đã ngã xuống mà vẫn canh chừng từng thước đất quê hương.
Ở Làng Vây, nơi từng diễn ra những trận đánh ác liệt, tôi nghe các cô gái Vân Kiều cất tiếng hát múa xòe. Trong tiếng cười ấy, vẫn ẩn nỗi buồn, vẫn còn đâu đó hơi thở của những người đi không trở lại. Khe Sanh ngày nay đã rợp xanh cây cà phê, hồ tiêu, nhưng hơi đất vẫn mằn mặn vị đạn bom. Cái vị ấy, dẫu có ngàn năm, vẫn không tan.
Một cụ già ở gần đó kể với chúng tôi: “Hồi xưa, mỗi tấc đất này đều có xương người. Trồng cây, đào lên thấy cả bi đông, mảnh pháo. Bây giờ, chúng tôi sống trên máu xương của con cháu mình, nên càng phải giữ làng, giữ đất”.
Tôi nghe mà nghẹn. Trong câu nói ấy có cả một triết lý dân tộc: những gì dựng nên hôm nay, đều được trả giá bằng xương máu của ngày hôm qua.
.jpg)
Quảng Trị – dòng sông Thạch Hãn vẫn chảy màu đỏ
Nhắc đến Thành cổ Quảng Trị, trong tôi luôn trào dâng hai chữ: thiêng liêng. Nơi ấy, 81 ngày đêm của mùa hè năm 1972 đã trở thành biểu tượng bất tử. Trên mỗi viên gạch, mỗi tấc cỏ, đều có vết tích của đạn pháo, của máu, của nước mắt.
Khi đoàn chúng tôi đến, tiếng chuông nhà tưởng niệm vừa ngân. Tôi đứng lặng bên dòng Thạch Hãn, nghe nước róc rách như tiếng thầm thì của hàng vạn linh hồn. Bên kia bờ, cây bàng còn sót lại – lá đã ngả màu – như một nhân chứng im lặng cho những ngày thành cháy.
Tôi nhớ đến những lá thư cuối cùng của các chiến sĩ giữ thành: “Nếu anh không về, em đừng buồn. Anh sẽ hóa thành sông Thạch Hãn, để soi bóng em mỗi sớm mỗi chiều”.
Một lời trăng trối mà hóa thành bất tử.

Đoàn VNS TP. Hồ Chí Minh bên sông Thạch Hãn.
Sau phim “Mưa Đỏ”, nhiều người mới biết đến sự khốc liệt của 81 ngày đêm ấy. Nhưng với những ai đã đặt chân đến từng bức tường, từng góc thành, từng mảnh gạch – đều hiểu rằng, có những điều chỉ đất và máu mới nói được.
Tôi thả xuống dòng sông một đóa hoa. Nước cuốn đi. Dòng Thạch Hãn vẫn chảy – nhưng trong tôi, dòng máu ấy không bao giờ ngừng.
Vĩnh Mốc – bản anh hùng ca trong lòng đất
Từ Quảng Trị ra Vĩnh Linh, chỉ hơn trăm cây số, nhưng mỗi bước chân là một trang sử.
Nếu Trường Sơn là “rừng của những người nằm lại”, thì Vĩnh Mốc là “lòng đất của những người không chịu khuất phục”.
Địa đạo Vĩnh Mốc – kỳ tích của trí tuệ và lòng kiên cường – nơi hàng trăm người dân vừa sống, vừa chiến đấu trong suốt những năm tháng mưa bom bão đạn. Khi bước xuống lòng địa đạo, tôi nghe tiếng tim mình đập hòa cùng tiếng đất. Đường hầm chật hẹp, ẩm ướt, chỉ vừa cho một người cúi lom khom mà đi, nhưng trong bóng tối ấy là cả một ánh sáng – ánh sáng của niềm tin, của sự sống bất diệt.
Cô hướng dẫn viên nói: “Ở đây, trong bom đạn, vẫn có những em bé được sinh ra. Có em chưa kịp nhìn thấy bầu trời”.
Những đứa trẻ sinh ra trong lòng đất ấy – bây giờ đã là ông, là bà – mang trong mình dấu vết của chiến tranh và tinh thần kiên cường của cha ông.
Khi trở lên mặt đất, ngay trước mặt là biển, tôi ngước nhìn trời, thấy bầu trời xanh hơn bao giờ hết. Và tôi hiểu: nhờ những người trong lòng đất, chúng ta hôm nay mới được nhìn thấy bầu trời tự do.

Các VNS vừa chui từ địa đạo lên - phía trước mặt là biển - Ảnh: Kha Đạt.
Dáng Mẹ Suốt bên sông Nhật Lệ

Tác giả và nhạc sĩ Khánh Vinh bên tượng đài Mẹ Suốt
Đến Quảng Bình, dưới tượng đài Mẹ Suốt, tôi lặng nhìn dòng Nhật Lệ lững lờ trôi giữa nắng chiều. Gió sông vẫn hun hút, những con sóng nhỏ vẫn thì thầm như còn giữ nhịp chèo năm xưa.
Người phụ nữ Quảng Bình tuổi ngoài năm mươi ấy đã chèo hơn 1.400 chuyến đò giữa mưa bom bão đạn, đưa bộ đội, thương binh, vũ khí qua sông — và cũng là qua ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết.
Nhớ lời thơ Tố Hữu viết giữa năm 1965: “Sợ chi sóng gió tàu bay/ Tây kia mình đã thắng, Mỹ này ta chẳng thua!”
Một câu thơ giản dị mà rực lửa, như nói thay khí phách của người mẹ “lá cờ đầu” giữa dòng Nhật Lệ.
Năm 1968, trong một trận oanh kích của máy bay Mỹ, Mẹ Suốt đã ngã xuống, nhưng từ đó, con sông càng thêm linh thiêng. Dòng Nhật Lệ không chỉ chảy ra biển, mà còn chảy vào lòng dân tộc – nơi một người mẹ bình dị đã hóa thân thành mái chèo bất tử của niềm tin và khát vọng Việt Nam.
Và hôm nay, bên tượng người mẹ anh hùng, tôi đã viết:
Gió vờn Nhật Lệ miên man nắng
Dáng Mẹ hiên ngang chạm mây trời
Mái chèo năm ấy còn khua sóng
Theo mỗi bước chân, mỗi hồn người.
Hành trình của ký ức – hành trình của lòng biết ơn
Trở lại những chiến trường xưa, tôi càng thấm thía hai chữ hòa bình. Càng hiểu rằng, sự sống hôm nay là phần được gửi lại từ cái chết của bao người. Họ ngã xuống để đất nước đứng dậy, để tiếng cười trẻ thơ vang trên bờ biển, để lúa trổ bông trên ruộng đồng, để chúng ta được nói hai chữ “quê hương” mà không phải cúi đầu.
Có bạn thơ chân tình chia sẻ: “Chúng ta cứ đi viết về chiến tranh, về đau thương mất mát, liệu có nặng nề không?”. Không, tôi không thấy nặng nề, trái lại cảm thấy nhẹ nhõm hơn – vì viết là một cách trả ơn, là cách để lòng mình được yên. Bởi tôi tin rằng:
Mỗi ngọn gió thổi qua Trường Sơn đều có hơi thở của những người lính trẻ.
Mỗi giọt nước sông Thạch Hãn đều là dòng máu của một người anh hùng.
Mỗi nụ mai trước tượng đài Mẹ Suốt đều là giọt nước mắt hóa thành hoa.
Lời của đất – lời của mẹ

Đêm về, tôi lại nhớ những nghĩa trang, những hàng bia, những con đường đất đỏ. Nhớ tiếng chuông chùa giữa Trường Sơn vang lên giữa mênh mông núi rừng – âm thanh như tiếng đất gọi con về.
Tôi ngồi viết những dòng này, nghe như có ai đang đọc thầm bên tai. Có thể là người lính nằm lại bên đường, là bà mẹ Vĩnh Linh vẫn đan áo trong lòng đất, cũng có thể là Mẹ Suốt đang chèo đò giữa sông đêm. Họ không nói gì, nhưng tôi hiểu: họ muốn chúng ta sống sao cho xứng đáng.
Hành trình “Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình” đã đưa chúng tôi qua nhiều miền đất, nhưng hành trình đến những nơi thấm máu đồng bào lại là hành trình sâu nhất của tâm hồn. Hành trình tri ân chưa bao giờ dừng lại. Bởi khi còn biết cúi đầu trước những nấm mộ vô danh, ta vẫn còn giữ được linh hồn của dân tộc.
Những con đường tôi đi qua – Trường Sơn, Khe Sanh, Thạch Hãn, Vĩnh Mốc – không chỉ là mạch đất, mà là mạch máu của ký ức. Và tôi tin: chỉ khi biết tri ân, con người mới có thể sống xứng đáng với những người đã khuất.
N.H.
(Tháng 10 -2025, sau hành trình “Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình”)
Mời đọc:
- TỪ BẾN NHÀ RỒNG ĐẾN BA ĐÌNH (Nghĩ về Bác)
Mời đón đọc:
- HÀNH TRÌNH VỀ NGUỒN – DÒNG CHẢY CỦA TỔ TIÊN (Về các tiền nhân)
- NHỮNG ĐỊA CHỈ LỊCH SỬ – NHỮNG ĐIỂM DU LỊCH ĐẦY TIỀM NĂNG (Quảng bá du lịch).