- Ngôn ngữ-Lý luận - Phê bình
- Hốc chọ - Trường ca thấm đẫm hồn quê xứ Nghệ
Hốc chọ - Trường ca thấm đẫm hồn quê xứ Nghệ
Trường ca "Hốc chọ" của Bùi Sỹ Hoa không chỉ là một tác phẩm văn chương đậm chất sử thi mà còn là bản tráng ca về con người và mảnh đất Nghệ An. Qua bài viết dưới đây của Ths Bùi Công Kiên, "Hốc chọ" hiện lên với những lớp lang cảm xúc: từ hình ảnh người ông lặng lẽ "mài đêm" giữa thiên nhiên khắc nghiệt, đến những nhân vật lịch sử như Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, hay biểu tượng "cá gỗ" đầy kiên cường. Đặc biệt, bài viết khẳng định sự kết tinh của văn hóa xứ Nghệ qua điệu ví dặm, dòng sông Lam, và tinh thần bất khuất "đói rách sạch thơm". Một phân tích sâu sắc, giúp độc giả thêm trân trọng giá trị của trường ca này - như lời nhà thơ Đặng Huy Giang: "Hốc chọ chính là bài ca của sự nhẫn, của cốt cách làm nên tinh thần Nghệ".
Trường ca “Hốc Chọ” (NXB Hội Nhà văn, năm 2023) và tác giả Bùi Sỹ Hoa
CHẤT NGHỆ TRONG TRƯỜNG CA “HỐC CHỌ”
Ths BÙI CÔNG KIÊN
Bùi Sỹ Hoa được biết đến là một nhà báo và nhà thơ với những câu thơ giản dị nhưng không kém phần sâu sắc. Đặc biệt, trường ca “Hốc chọ” ra đời trong thời gian gần đây đã tạo được tiếng vang trên văn đàn. Với sự ra đời của bản trường ca này, thêm một lần nữa hình ảnh vùng quê, con người xứ Nghệ được khắc họa sắc nét.
Nhà thơ Bùi Sỹ Hoa (SN 1960) quê xã Nam Sơn (Đô Lương), tốt nghiệp khoa Ngữ Văn – Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, từng trải qua quân ngũ, là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông từng giữ các chức vụ: Trưởng phòng Thời sự - Đài Phát thanh – Truyền hình Nghệ An, Tổng Biên tập Báo Nghệ An, Tổng Biên tập báo điện tử Vietnamnet. Thơ ông được đánh giá vừa giản dị, vừa hiện đại, có sự kết nối chặt chẽ giữa hình thức và nội dung. Nhà thơ thường khám phá những cảm xúc và suy nghĩ sâu sắc nhưng được thể hiện qua những hình ảnh và câu thơ đơn giản, gần gũi với cuộc sống.
Trường ca “Hốc chọ” được nhà thơ Bùi Sỹ Hoa khởi viết từ tháng 3/2020, hoàn thành và xuất bản vào cuối năm 2023. Ngay tiêu đề “Hốc chọ” đã gây chú ý đối với người đọc, bởi không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của từ này. Dường như đoán biết được điều đó, nên trước khi đi vào nội dung, tác giả đã giải nghĩa: Vùng khai trang, lập trại nơi rừng sâu, núi thẳm; vùng đó khó dưới/giữa chân đồi núi theo từng con nước… được người dân nhiều nơi ở Nghệ An gọi là hốc/hóc, chọ, gọi chung là hốc chọ.
Trường ca “Hốc chọ” gồm 757 câu thơ, được chia thành 9 đoạn, là nơi kết đọng bao cung bậc tình cảm của tác giả với quê hương, trước tiên là vùng Chọ Hao, nơi ông, bà đến vỡ hoang và sau nữa là vùng quê xứ Nghệ. Hay nói cách khác, “Hốc chọ” thẫm đẫm chất Nghệ trong mỗi câu thơ và ý thơ: “Nhà tôi Chọ Hao/Giữa lòng Hòn Nghiên, Hòn Mực/Ông bà thương nhau thuở suối khe tình tứ/Thuở nhạt muối, đắng gừng, kèo cột tít rừng xanh”.
Mở đầu trường ca, tác giả khắc họa hình ảnh người ông của mình với bao nỗi nhọc nhằn, vất vả: “Đêm đầy sao/Tiếng hạc nhạt vào khuya loãng/Ông tôi ngồi xa xăm/Bóng xiên liếp nhà húng hắng/Chắt cạn ấm chè xanh/Hớp cuối cùng ực nghẹn/Thơm ngọt tràn đầy, đắng chát chưa trôi/Đêm sao tốt tươi/Mai nắng hun, gió rang/Mai sá đất quằn vỏ đỗ/Trâu gác sừng nằm thở/Phì phò giấc vũng đằm…”.
Ở đây, cảnh thiên nhiên khắc nghiệt hiện ra trong từng chữ, từng câu giúp cho người đọc hình dung cảnh sống của những người dân miền nắng cháy: “nắng hun”, “gió rang”, “quằn vỏ đỗ”… Đó chính là những trở lực được thiên nhiên bày ra để thử thách ý chí, bản lĩnh của những người nông dân đến khai hoang, lập nghiệp ở vùng hốc chọ, nơi xứ Nghệ khô cằn.
Vốn được sinh ra từ vùng quê mưa dầu, nắng lửa, những người nông dân đã âm thầm vượt lên nắng nỏ, bão giông để mưu sinh và xây dựng cuộc sống với bao vui, buồn và nỗi lo toan của cuộc sống đời thường: “Mặt đồng nứt nhăn vầng trán cha/Nền trời hoang hoải đôi mắt mẹ/Héo hon nụ cười em gió khô/Rạc rụng bờ tre gai tháng bảy/Te tua tàu chuối vàng tháng tám/Người lăn lóc xó bờ đâu, cuốc cày hốc chọ nao/Người rừng sâu chon von no đói ốm lành khuya sớm làm sao…”.
Thể loại trường ca thường nhắc đến các nhân vật lịch sử - nhân vật có ảnh hưởng, chi phối đến đời sống cộng đồng. Trong “Hốc chọ”, Bùi Sỹ Hoa đã nói về công chúa La Bình và Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, những nhân vật có công lao đối với xứ Nghệ. Khi nói về công chúa La Bình, tác giả viết: “Công chúa La Bình/Đẹp nhất rừng rừng hoa/Thơm nhất trái trái chín/Ngọt nhất suối suối trào/Sáng sáng nhất trần gian… Hộ người khó, người khôn/Kêu người hay, người vụng/Dạy người làm vén vun/Nhắc người lo chỉ lối/Tiếng thơm thơm tràn bay mây, dâng sương”.
Theo truyền thuyết của cộng đồng các dân tộc ở miền Tây Nghệ An, Công chúa La Bình là con gái của Sơn Tinh và Mỵ Nương, cháu ngoại Vua Hùng, bằng tâm đức và tài năng thường đi khắp vùng núi rừng để bảo ban, giúp đỡ dân lành cách trồng lúa, dệt vải. Về sau, nàng được suy tôn là Mẫu Thượng Ngàn (Mẹ của núi rừng), được nhân dân khắp các bản làng thờ cúng.
Và khi viết về Lý Nhật Quang (995 - 1057), nhà thơ Bùi Sỹ Hoa dành tất cả tấm lòng thành kính, chân thành: “Người về từ Kinh thành/Không tiền hô hậu ủng/Không ngựa tung vó dạt dân lành/Không lính quác gà, éc lợn/Không võng lọng rình rang/Không thách trời, dứ đất… Mở bồ thóc đầy cho kẻ khó, người hèn/Mở vung cơm sôi no ấm thơm đều/Quan thu thuế không hà lạm của dân một cắc/Trống hội làng không giục thuế, thúc sưu/Uy Minh Vương không xa dân nửa nước”.
Với hệ thống hàng chục đền thờ nằm ở các vùng quê đủ thấy tấm lòng của người dân xứ Nghệ đối với công đức của Uy Minh Vương Lý Nhật Quang. Trong đó, đền Qủa Sơn tọa lạc ở vùng lỵ sở Bạch Ngọc (xã Bồi Sơn – Đô Lương) được xếp thứ hai trong 4 ngôi đền linh thiêng bậc nhất (tứ linh) của xứ Nghệ (Nhất Cờn, nhì Qủa, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng).
Trong trường ca “Hốc chọ”, nhà thơ Bùi Sỹ Hoa còn đưa hình ảnh cá gỗ với tần suất khá dày đặc để khẳng định truyền thống hiếu học và học giỏi của người dân xứ Nghệ: “Tôi là cá gỗ/Sinh ở làng Văn Trường, Văn Lâm/Lớn lên cạnh Hòn Nghiên, Rú Bút/Nhà nghèo đông con đứa đi ở đợ/Đứa làm vú em/Nuôi thầy tôi hay chữ lại hay nghĩa/Sớm khuya duy một sách đèn”.
Câu “Tôi là cá gỗ” được điệp đi điệp lại tới 12 lần với dụng ý nhấn mạnh ý chí vượt khó dùi mài kinh sử, lều chõng ứng thí, giữ trọn thanh danh và hướng tới chân trời mới của những học trò đất Nghệ. Qua đó, giúp người đọc hình dung rõ hơn về tinh thần khổ học cũng như bản lĩnh của một vùng quê giàu truyền thống lịch sử, văn hóa, nơi được xem là chiếc nôi sản sinh và nuôi dưỡng hiền tài.
Và, khi nói về xứ Nghệ không thể không nhắc tới dòng sông Lam và làn điệu dân ca ví, giặm. Sông Lam chảy suốt chiều dài vùng đất, bồi đắp cho những cánh đồng, nương bãi màu mỡ phù sa, cho lúa, ngô tươi tốt. Dòng sông Lam cũng sản sinh ra điệu hò ví, giặm, được xem là “điệu hồn” của xứ Nghệ, là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Với “Hốc chọ”, Bùi Sỹ Hoa đã dành một trường đoạn để nói về sông Lam và câu hò, điệu ví, được bắt đầu bằng câu ví sông Lam: “Ai biết nác sông Lam răng là trong, là đục/Thì mới biết sống cuộc đời răng là nhục, là vinh”. Đặc biệt, tác giả đã khá dụng công trong khắc họa cảnh sinh hoạt văn hóa và sức sống mãnh liệt của những làn điệu quê hương: “Câu hát đò ngang bắt quàng đò ngược/Câu hát nương dâu ăn rỗi nong tằm/Câu hát bên bồi dối lòng bên lở/Câu hát sang sông con bế con bồng…”.
Bình luận về trường ca “Hốc chọ”, nhà thơ Đặng Huy Giang đã viết: “Theo tôi, “Hốc chọ” là một trường ca có mảng, có miếng, có luồng có lạch, ngồn ngộn chi tiết thơ, đơn vị thơ xoắn xuýt với nhau, tạo nên nhiều hình tượng thơ, luôn neo bám vào đất quê và hồn quê trong một mạch diễn đạt, suy tưởng hanh thông. Về mặt lao động nghệ thuật, “Hốc chọ” được viết rất kỹ lưỡng, kỳ khu và bộn bề cảm xúc. Và sau chót, “Hốc chọ” chính là bài ca của sự nhẫn, của sự không khuất phục, của sự cương cường, của ý chí, của cốt cách...làm nên tinh thần Nghệ và bản lĩnh Nghệ”.
Nguồn: Nghệ An Cuối Tuần, số 15/6/2025.