- Ngôn ngữ-Lý luận - Phê bình
- Lương Tử Miên – một hồn thơ ấm áp khi “Đi qua cơn gió mùa”
Lương Tử Miên – một hồn thơ ấm áp khi “Đi qua cơn gió mùa”
Nhân kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22-12), bài viết Lương Tử Miên – một hồn thơ ấm áp khi “Đi qua cơn gió mùa” gợi lại hình ảnh người lính–thi sĩ đi qua chiến tranh bằng cả trải nghiệm trận mạc và chiều sâu nhân cách. Từ những năm tháng khói lửa đến đời sống hậu chiến, thơ Lương Tử Miên mang theo ký ức đồng đội, tình yêu gia đình và một niềm tin lặng lẽ vào con người. Đọc bài viết, ta nhận ra: thơ của người lính không chỉ lưu giữ lịch sử, mà còn giữ ấm những giá trị nhân văn bền bỉ giữa đời sống hôm nay. Cánh buồm thao thức xin đăng tải lại bài viết từ website Tạp chí Sông Lam và mời qúy vị cùng đọc.
LƯƠNG KHẮC THANH
Nhà thơ Lương Tử Miên sinh năm 1932, quê xã Minh Châu, tỉnh Nghệ An, hiện sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông là một quân nhân đi trọn ba cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, về hưu với quân hàm đại tá. Ông song toàn cả về quân sự (sĩ quan tác chiến) và chính trị (sĩ quan tuyên huấn). Đến nay, Lương Tử Miên đã xuất bản bốn tập thơ: Bến cũ; Mưa bay cuối mùa (tập này được nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo chọn từ một câu thơ của ông trong tập để đặt tên cho tập); Gửi những yêu thương và tập Đi qua cơn gió mùa. Đi qua cơn gió mùa, NXB Hội Nhà văn 2025, là tập thơ chọn lọc 100 bài thơ từ trong ba tập trước đó, cùng với những bài thơ ông viết từ năm 2022 đến tháng 8 năm 2025.

Nhà thơ Lương Tử Miên.
Lương Tử Miên sinh ra từ một làng quê nghèo cạnh lèn Hai Vai, Nghệ An. Người nông dân nơi đây một thời từng quanh năm “một nắng hai sương”, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời giữa khí hậu khắc nghiệt, nắng mưa, bão lũ, luôn thiếu đói giữa chuỗi ngày giáp hạt. Hình ảnh ấy được ông khắc họa vào thơ thật ấn tượng và xót xa:
“Quê mình lắm nắng nhiều mưa
Lưỡi cày thì vặn, răng bừa thì vênh
Con trâu bước trước bóng mình
Cái nghèo vẫn cứ rập rình quanh ta
Câu ca ngày Tám tháng Ba…
Vẫn tròn trong những quả cà muối chua”
(Người đi xa)
Lớn lên, ông gia nhập quân đội, đã hành quân mải miết suốt ba cuộc kháng chiến trường kỳ, in dấu chân trên khắp mọi miền đất nước và đã từng phải mang trên mình những vết thương nặng. Tất cả đã được thơ ông khắc họa và lưu dấu:
“Một anh con trai nhà nghèo vừa chớm tuổi đôi mươi
Chưa kịp lớn đã bập vào chiến trận
Chữ nghĩa không quen bằng quen súng đạn…”
(Bài học vỡ lòng)
Và giờ đây, những năm tháng quân ngũ đã thành kỷ niệm: “Nhớ xưa vác pháo qua đèo/ Chênh vênh mỏm đá tai mèo nát chân” (Nói với nàng vọng phu); “Mảnh đạn kẻ thù còn găm bên cánh phổi/ Những đêm dài gió đông bắc lại đau” (Viết cho con).
Những câu thơ ông viết về nỗi buồn, thật buồn. Đó là nỗi buồn khắc khoải mong đợi của bản thân: “Mình ngồi rót đắng vào thêm/ Để lòng ru những nỗi niềm chờ mong” (Bên tách cà phê); là sự thấu cảm nỗi buồn của người bạn gái, của nàng vọng phu: “Lẻ loi một bóng canh khuya/ Con đường quen dấu chân về lặng thinh” (Nói với nàng vọng phu); là nỗi buồn thăm thẳm khi vợ và người thân rời cõi tạm: “Bữa ăn đầu tiên bà không đến cùng ngồi/ Miếng cơm nhỏ nuốt kiểu gì cũng nghẹn!” (Nỗi lòng tử biệt sinh ly)…
Nỗi buồn thường trực trong thơ ông thường có sự ám ảnh của nỗi đau thân phận. Nỗi buồn ấy không chỉ gặp riêng ở người trai quân nhân ngoài mặt trận mà còn gặp ở người phụ nữ qua mấy lần vọng phu trong ba cuộc kháng chiến trường kỳ. Nhà thơ Hữu Loan cũng từng bày tỏ tâm trạng thật xúc động:
“Không chết người trai nơi tuyến lửa
Mà chết người em gái hậu phương!”
Về hưu giữa đời thường, ông lại thương cho con mình, cho bản thân mình đã ngu ngơ giữa chợ đời đen bạc:
“Cuộc sống đầy những tráo trơ lừa lọc
Mà đồng tiền lại hai mặt trắng đen
Con sống chân phương nơi muôn vạn thấp hèn
Bước ngơ ngác giữa dòng đời bề bộn”
(Viết cho con).
Có lúc đã lung lay cả niềm tin đeo đuổi:
“Ồn ào cơn lốc thị trường
Ngả nghiêng lay động đời thường anh em”
(Một thời để nhớ).
Nhà thơ tự bạch: “Thơ Khoai thuộc loại thơ buồn” (Khoai là biệt danh mà ông và bạn bè thường gọi vui tên ông là Hai Ngô Khoai). Khoai thường viết về nỗi đau thân phận. Khoai là một người lính ra trận nhưng ít khi có cái cảm xúc như Phạm Tiến Duật (Đường ra trận mùa này đẹp lắm). Trong cuộc chiến tranh lâu dài và tàn khốc ấy, người dân Việt Nam nói chung đều bị mất mát, nhưng giới nữ, theo Khoai, là đối tượng mất mát nhất.”
Thơ Lương Tử Miên còn là những nợ nần tri ân được bày tỏ đến gan ruột về công cha, nghĩa mẹ, về gia đình, về đồng đội hy sinh, về những tình cảm chia biệt: “Nợ từ giọt sữa mẹ nuôi/ Bát cơm cha đổ mồ hôi xuống đồng” (Noel về đêm nay); “Ai về yên nghỉ nghĩa trang/ Ai còn vương nắm xương tàn nơi đâu/ Khói hương xin được nguyện cầu/ Nghĩa tình đồng đội bạc đầu chẳng quên” (Một thời để nhớ); “Nợ nần có trả cho nhau/ Để mai sau đến mai sau nợ nần/ Hỡi người đi chợ phù vân/ Thơ ta viết cũng chỉ ngần ấy thôi” (Em có về bên ấy cùng anh)…

Tập thơ “Đi qua cơn gió mùa”.
Thơ ông thấm đẫm chất liệu ca dao và dân ca ba miền, nơi đã từng in dấu mỗi bước chân của người chiến sĩ. Đó là sự ngọt ngào trong câu dân ca quan họ, trong điệu lý giao duyên Nam Bộ, hay sự đậm đà sâu lắng của câu ví giặm Nghệ Tĩnh quê nhà đã hồn nhiên đi vào thơ ông đầy hàm súc: “Đắm mình trong khúc dân ca/ Theo người yếm thắm đi ra hội làng” (Gửi người con gái sông Thương); “Hàm Luông đang độ nước ròng/ Cổ Chiên bến cũ ai mong chuyến đò/ Sang ngang hát trọn câu hò/ Năm xưa mấy nhớ, mấy chờ, mấy thương” (Có người hát lý giao duyên); “Ngàn năm điệu lý lời ca/ Ví dầu cầu ván thiết tha nỗi niềm…/ Lục bình cứ tím ngẩn ngơ/ Ai xui bìm bịp bơ vơ gọi chiều” (Hàm Luông nay đã bắc cầu)/ “Ở đâu ganh ghét tỵ hiềm/ Ở đây lá biếc cành mềm cho thơ/ Sông Lam con sóng vỗ bờ/ Mang câu ví giặm đò đưa dâng đời” (Nghệ Tĩnh mình đây)…
Thơ Lương Tử Miên luôn đầy ắp cái đẹp của tình yêu hồn nhiên trong trẻo, tình yêu còn theo ông mãi cho đến tuổi bạc đầu:
“Mưa rừng con suối mênh mông
Nghiêng bờ vai ướt em hong nắng chiều
Ngỡ ngàng đôi mắt trong veo
Mơ mùa xuân những cánh diều vút bay”
(Bây giờ em ở đâu).
Lương Tử Miên có những câu thơ thật tài hoa:
“Hình như trời chuyển sang hè
Nôn nao rơi những tiếng ve gọi mùa
Tím đường tà áo đung đưa
Cái ngày xưa Huế cũng vừa gọi ta”
(Huế những năm xa).

Mùa Đông. Ảnh: Võ Khánh.
Nếu được thổi hồn bởi những nốt nhạc trữ tình quê hương thì những ca từ trong thơ Lương Tử Miên quả đẹp, lung linh và lay động lòng người. Người làm thơ chỉ mong có được một câu thơ đẹp lưu lại trong lòng độc giả, nhưng với thơ Lương Tử Miên, không những cả khổ thơ đẹp, mà còn nhiều bài thơ đẹp cả ý lẫn tứ:
“Cho tôi yêu một lần thôi
Bởi vì tôi
Chỉ vì tôi
Một lần
Mải đi tìm trái tầm xuân
Và núi lở
Và sông dâng
Và rồi…
Phải chi lửa đứng than ngồi
Lửng lơ con cá vàng bơi… đi tìm”
(Một lần)
Thi nhân khái quát về mảnh đất và con người xứ Nghệ chỉ trong hai câu thơ mà trọn vẹn:
“Sông quê dù ít phù sa
Mồ hôi thấm đất mà ra mỡ màu”
(Nghệ Tĩnh mình ơi).
Lương Tử Miên ý thức về sự nuôi dưỡng tình yêu con người và trao gửi qua thông điệp thơ:
“Cuộc sống và tình yêu
Có muôn ngàn cung bậc
Nụ cười và nước mắt
Vẫn từ một trái tim
Giữ cho nhau bình yên
Ngoài kia trời lạnh lắm
Vẫn cần ngọn lửa ấm
Đi qua cơn gió mùa”
(Gửi bạn)
Ông đã sống trọn một cuộc đời cống hiến và cho đi mãi mãi:
“Tôi đi qua một mùa Giáng Sinh
Đếm tuổi đời lặng trôi trên trang lịch
Vẫn cảm nhận mình không thể nào vô ích
Cho một nỗi đau ai đó muốn tìm về”
(Đêm Giáng Sinh)
Lương Tử Miên chỉ nhận mình là người làm thơ nghiệp dư, ông xem thơ như một phương tiện trợ giúp, giải tỏa cho bản thân giảm thiểu tham, sân, si và nuôi dưỡng cái đẹp để đi qua những khổ đau của kiếp người, “đi qua cơn gió mùa”. Không bon chen danh lợi cùng tất cả những phẩm hạnh đã hun đúc mà làm nên nhân cách cao đẹp của thi sĩ Lương Tử Miên:
“Người ta chen chúc đi lên
Mình lui về phía bình yên nương nhờ
Giấu mình sau những câu thơ
Nửa say nửa tỉnh bên bờ nhân sinh”
(Ngược chiều)
Được nhà thơ Lương Tử Miên tặng sách, tôi ngồi đọc liền một mạch cả trăm bài thơ, có những câu thơ, khổ thơ, bài thơ đọc đi đọc lại. Thơ ông viết đa số theo thể lục bát, một ít bài theo thể năm chữ, thể bảy chữ. Bài nào cũng đẹp, đằm nhuyễn như hồn ca dao, dân ca ba miền. Ông không chạy theo xu hướng cách tân hình thức đổi mới hiện đại thơ. Ông chỉ nương theo nhịp điệu quen thuộc của thơ lục bát, năm chữ, bảy chữ để nhả chữ cho thơ hồn nhiên, nhẹ nhàng thoát ra. Vậy mà thơ ông bài nào cũng đọng, nhiều bài tròn trĩnh cả ý lẫn tứ. Đã ở tuổi 94 mà cái hồn của thi nhân vẫn còn mềm mại, trẻ trung, hồn nhiên và trong trẻo đến lạ thường. Thơ tình của ông vẫn cứ đằm thắm ngọt ngào.
Nguồn: Tạp chí Sông Lam