TIN TỨC
icon bar

Tản mạn chuyện... thẩm thơ

Người đăng: nguyenhung
Ngày đăng: 2025-10-01 17:50:46
mail facebook google pos stwis
113 lượt xem

Thơ vốn là tiếng nói nội tâm, nhưng để tiếng nói ấy chạm đến người đọc, cần cả sự tinh tế trong phê bình và sự biết lắng nghe của tác giả. ‘Tản mạn chuyện… thẩm thơ’ dẫn ta đi qua những ví dụ sinh động để thấy rõ hơn nghệ thuật thẩm thơ và... sửa thơ. Xin mời bạn đọc cùng chia sẻ, cùng đối thoại với PGS-TS Vũ Nho qua Cánh buồm thao thức để tình yêu thơ ca thêm lan tỏa.
 

PGS-TS VŨ NHO


Bài 1: NHỮNG NỂ PHỤC VÀ TRANH LUẬN


RẤT NỂ PHỤC NHÀ THƠ XUÂN DIỆU

Tôi không nhớ chính xác đã đọc bài tổng kết cuộc thi thơ của Xuân Diệu vào năm nào, nhưng ấn tượng về sự tinh tế của "ông hoàng thơ tình" này vẫn còn mãi. Có hai ví dụ về những góp ý của nhà thơ Xuân Diệu mà tôi không thể quên.

Một nhà thơ viết về hương hồi (hay hương thảo quả) với cô thiếu nữ miền núi:

Hương ngát thơm nồng nếp váy xanh

Nhà thơ Xuân Diệu nhận xét rằng chữ "nồng" rất thô! Váy áo phụ nữ mà "nồng mùi" thì chẳng có gì hay cả! Ông đề nghị sửa thành:

Hương ngát thơm vào nếp váy xanh

Cũng là thơm, nhưng "nồng" thì dở, còn "vào" thì ổn!

Cũng trong bài nhận xét ấy, một nhà thơ khác khá có tên tuổi viết:

Nón che chung trời mưa lổ đổ

Đôi môi hương sấu chín dịu chua

Nhà thơ Xuân Diệu nhận xét rằng, nói mồm, môi chua là nói đến người ốm! Cho nên chữ "chua" dù được giảm nhẹ bằng "dịu chua" nhưng vẫn còn thô. Ông đề nghị bỏ bớt đi! Và quả thực, khi bỏ đi, câu thơ hay hẳn lên:

Nón che chung trời mưa lổ đổ

Đôi môi hương sấu chín

Rất đẹp và rất gợi tả đôi môi của người bạn gái! Hóa ra, thơ nói đủ hết, thật hết lại không hay bằng nói thiếu!


PGS-TS, nhà LLPB Vũ Nho.

 

PHỤC NHÀ THƠ TỐ HỮU BIẾT LẮNG NGHE

Người ta kể rằng nhà thơ Tố Hữu viết bài thơ "Xuân sớm" đăng báo, trong đó có hai câu:

Nghé con mày đứng cho ngoan

Chớ ăn mất lá hàng xoan mới trồng

Là người từng chăn nghé và từng tranh luận với nhà thơ Huy Cận, tôi lại không để ý đến chi tiết này.

Một lần công tác tại Thái Bình, tôi được các đồng nghiệp cho biết một nhà giáo ở đây đã cảm thán và viết:

Lá xoan đắng lắm bác ơi

Nghé không xơi được, vậy thời bác SAI!

Chà, vị này quả thật tinh tường! Dám đưa ra nhận xét và chịu trách nhiệm về lời phê của mình.

Không rõ có ai thông tin cho nhà thơ Tố Hữu hay không, nhưng tôi tin là có. Bằng cách nào đó, hai câu này đã đến tai nhà thơ. Sau đó, ông lẳng lặng sửa lại câu thơ trên thành:

Nghé con mày đứng cho ngoan

Chớ xô hàng chuối hàng xoan mới trồng
(Xem bài "Xuân sớm" trong "Tố Hữu - Thơ", NXB Giáo Dục, 1994, trang 419)

Cách sửa rất khéo! Điều đáng khâm phục hơn là nhà thơ đã biết lắng nghe và sửa chữa.
 

TRANH LUẬN CHUYỆN LÔNG NGHÉ VÀ CÁ VỚI KỸ SƯ CANH NÔNG NHÀ THƠ HUY CẬN

Tôi không nhớ chính xác thời điểm, nhưng chắc là vào dịp kỷ niệm 30 hay 35 năm thành lập Trường ĐHSP Việt Bắc (năm 1996 hoặc 2001). Nhà thơ Huy Cận là khách mời của khoa Văn và được mời làm Chủ tịch Hội đồng giám khảo cuộc thi thơ của sinh viên. Sau buổi liên hoan với Khoa Văn, trong không khí cởi mở, tôi mạnh dạn gặp nhà thơ và "có ý kiến":

- Thưa bác Huy Cận, bác có bài thơ "Thi nghé" rất nổi tiếng được đưa vào sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở. Xin mạn phép bác để góp ý rằng bài thơ đó bác có chỗ SAI ba lần!

- ???

- Vâng, tôi xin nói ngay: bác viết "Lông nó đen" là sai lần thứ nhất. "Đen nháy" là sai lần thứ hai. "Mẹ nó liếm, càng đen/ Mặt trời làm bàn chải, từng tia nắng vuốt thêm" là sai lần thứ ba!

Nhà thơ Huy Cận ngỡ ngàng vì một người ít tuổi hơn dám bảo mình sai BA LẦN, lại trước mặt cán bộ và sinh viên khoa Văn. Ông giải thích:

- Đây là tôi viết về con nghé đã lớn, sắp thành trâu cày!

- Trời, bác có dám đánh cược với tôi không ạ? Tôi cùng bác ra ngay ga Quán Triều để xem con trâu nhé! Xin thưa bác rằng "con trâu đen lông mượt" chỉ đen da thôi, chứ lông nó không hề đen. Tôi có thâm niên cưỡi trâu, tôi biết. Lông trâu khá thưa và có màu bàng bạc như hoa cỏ may. Còn lông nghé thì khá dày, và có màu vàng rơm nhàn nhạt ạ!

Đến đây, nhà thơ - kỹ sư canh nông - không dám đánh cược với một người có thâm niên chăn trâu, cưỡi nghé.

Nhân chuyện lông nghé, tôi tiếp tục:

- Thưa bác Huy Cận, bác có bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" khá hay trong sách giáo khoa THPT. Tôi nghe người ta đồn thế này không biết thực hư ra sao. Nay gặp bác, xin được hỏi cho rõ ạ!

- ???

- Người ta nói rằng bác là kỹ sư canh nông, hiểu biết về biển cũng có hạn. Bác đi thực tế, người dân Hòn Gai kể cho bác nghe về các loại cá để bác viết. Mấy câu ấy là:
Cá Nhụ, cá Chim cùng cá Đé
Cá Song lấp lánh đuốc đen hồng
Cá ĐUÔI ÉN quẫy trăng vàng chóe

Bác đã viết nguyên như thế. Nhưng cô đánh máy sơ ý đánh sai thành "cái đuôi em". Thế rồi mọi người đọc là "cái đuôi em quẫy...". Có thật thế không ạ?

- Không phải, chính tôi viết "cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe"!

- Cám ơn bác! Tôi đã giải tỏa được nghi vấn bấy lâu. Nhưng thưa bác, khi bác gọi cá bằng "EM" trong bài thơ này là khá dở, có thể nói rất dở!

- ???

- Bác gọi cá bằng "EM", không sao! Ở chỗ khác thì được! Nhưng chả nhẽ trong bài thơ này, "Đoàn thuyền đánh cá" nghĩa là "Đoàn thuyền đánh EM" sao? Mà đánh cá về để chơi ư? Để nâng niu các em cá ư? Không! Cá đánh về được đưa vào nhà máy cá hộp Hạ Long để làm thực phẩm. "Cá ơi ta xẻ cá ra, ta làm nước mắm, ta pha xì dầu". Chả nhẽ lại đối xử với EM CÁ như vậy sao?

- !!!

Bởi thế, tôi không khen bác câu thơ "cái đuôi em quẫy" mà còn kịch liệt phê bình! Bởi vì nó "sái"!

Tôi vẫn tin rằng câu thơ này phải là "Cá đuôi én quẫy..." trong mạch thơ nói về các loại cá!

Ai khen bác thì cứ khen, còn tôi xin phép bác được phê bình câu thơ này dở, rất dở!

Dẫu sao cũng cám ơn bác về cuộc đối thoại thẳng thắn này!
 

MẤY ĐIỀU TRAO ĐỔI LẠI VỚI NHÀ THƠ VŨ QUẦN PHƯƠNG

Tôi họ Vũ, nhưng chắc không có dây mơ rễ má gì với bác Vũ Quần Phương. Chỉ là trùng họ tình cờ. Tôi đã viết về nhà thơ Vũ Quần Phương khá nhiều: từ bình bài thơ, giới thiệu tập thơ đến viết về tập bình thơ, tiểu luận "Vũ Quần Phương với thơ hay"...

Tôi học được nhiều điều từ nhà thơ, người bình thơ nổi tiếng này. Dĩ nhiên, tôi cũng có những trao đổi lại với anh Phương trên tinh thần thẳng thắn và thân ái.

Chỉ xin kể ra đây mấy điểm để thấy rằng không phải lúc nào nhà bình thơ cũng thành công.

Chẳng hạn, khi bình bài thơ "Sao không về Vàng ơi" của Trần Đăng Khoa, anh cho rằng mất của khó làm thơ. Rồi lại nhận định mất chó thì chỉ "buồn cái tay" ("Mày không bắt tay tao, tay tao buồn làm sao"). Trong khi đó, con chó Vàng với chú Khoa là một người bạn - bạn khác loài nhưng vô cùng quan trọng.

Với Tố Hữu, người bình đã không thật sự thấu hiểu tình người khi chê rằng nhà thơ Tố Hữu làm công tác tuyên huấn: "Công việc tuyên huấn đôi lúc lấn vào cảm xúc thơ. Anh bộ đội trong bài 'Bầm ơi' chào mẹ lúc ra đi có một ngôn ngữ rất tuyên huấn:
Con đi mỗi bước gian lao
Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm"
("Bầm ơi")

Theo người bình, không có người con nào lúc xa mẹ lại nói thế ("Xa mẹ con có khối mẹ khác!"). Đây là Tố Hữu đã mượn lời để vun đắp tình quân dân, xây dựng phong trào "mẹ chiến sĩ" ("30 tác giả văn chương", sđd, trang 188).

Nghe qua thì có lý, nhưng ngẫm kỹ lại thì không hẳn. Nhà phê bình đã quên rằng, đây là lời người con đang an ủi mẹ, để mẹ đừng lo lắng. Anh nói thế để yên lòng mẹ chứ không phải là tuyên truyền về tình quân dân. Việc này, người con thường hay làm. Ra trận, "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi", nhưng bao người con đều nói những lời chắc nịch: "Bao giờ giặc xong/ Lại về Việt Bắc" (Tố Hữu - "Bà mẹ Việt Bắc") và trong "Bầm ơi" cũng vậy: "Giặc tan, con lại sớm hôm cùng bầm". Chẳng lẽ đây cũng là lời tuyên huấn?

Một ví dụ khác về trường hợp câu thơ của Bác: "Quân vụ nhưng mang vị tố thi" (Việc quân bận rộn chưa làm thơ được). Vị bác sĩ đã cố gắng hiểu những chữ Hán (vốn không dành cho thầy thuốc). Nhưng ở đây, anh quá nệ vào câu dịch không chuẩn: "Việc quân đang bận xin chờ hôm sau". Đến hơn ba lần, anh dẫn câu thơ dịch này với ý "xin khất", "chờ". "Khất", "chờ" đi liền với ví dụ khác: "Chờ cho kháng chiến thành công đã/ Bạn sẽ ăn mừng sinh nhật ta". Thực chất, Bác không hứa hẹn gì mà chỉ nói rằng: Việc quân bận rộn nên chưa làm thơ được.

Vũ Quần Phương đã hiểu không chính xác từ "dã kê" - gà đồng, tức là loại gà hoang chứ không phải gà trong xóm. Vì vậy, khi bình bài thơ của Phù Thúc Hoành, tác giả viết: "giữa hiu quạnh hoang vu gặp ấm áp làng mạc: tiếng gà đồng" (tr. 87) là không thuyết phục. Gà hoang ("dã kê") càng làm nổi bật sự hoang vắng, làm gì có làng nào ở đây! Cũng vì không rành chữ Hán, nên câu thơ của Nguyễn Hạ Huệ "Băng ki nguyên tự hương", Nguyễn Vinh Phúc dịch: "Hương bay từ tấm thân ngà"; nhưng người bình thơ lại bình "gió vờn tóc và gió mang hương ướp da". "Da tự tỏa hương" khác xa với "gió mang hương để ướp da". (Mà chữ "ướp da" nghe cũng không nhã vì gợi sự ướp xác!).
 

MÀU CỦA BÔNG HOA

Khi còn là sinh viên khoa Văn, tôi đã để ý đến câu chuyện "màu hoa" trong bài ca dao:

Trèo lên cây bưởi hái hoa

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay

Các bậc tiền bối đã bàn về nụ tầm xuân, hoa tầm xuân. Lúc ấy, các nhà nghiên cứu chỉ xoay quanh bốn câu, và tôi nhớ điểm tranh cãi lớn nhất là câu "Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc". Người bình thứ nhất cho rằng chắc do chép nhầm, phải hiểu chữ "xanh" vốn là chữ "ánh" hoặc "cánh" thì mới hợp lý, bởi không thể có "bông hoa màu xanh, lại xanh biếc". Nó có thể có ánh biếc khi là màu tím, vàng hay hồng... Rồi Lãng Bạc lại bàn và muốn đổi chữ "nở" thành "nảy" vì hoa tầm xuân chỉ có màu trắng hay hồng nhạt. Vậy chỉ có nụ tầm xuân mới nảy ra còn non tơ nên có thể xanh biếc (?). Nói tóm lại, mọi người đều đem so sánh bông hoa tầm xuân ngoài đời với bông hoa kỳ lạ "xanh biếc" trong ca dao và muốn sửa từ ngữ cho "hợp lý".

Dù non nớt về lý lẽ, tôi đủ tỉnh táo để cho rằng các vị tiền bối đã quên mất đây là bông hoa tầm xuân nghệ thuật, bông hoa lý tưởng, bông hoa đặc biệt nở trong con mắt của người si tình. Với anh ta, cô gái kia cũng như bông hoa này là "một, là riêng, là thứ nhất" trên đời. Thử ngẫm xem, nếu bông hoa này cũng có màu như các bông tầm xuân khác - nghĩa là khá phổ biến - thì đâu cần thốt lên "anh tiếc lắm thay".

Tôi giữ tinh thần đó cho đến khi bình toàn bộ bài ca dao có tên "Cuộc gặp muộn mằn".

Điều quan trọng nhất là khi anh tìm ra cô, phát hiện cô như "Điểm đỏ giữa muôn xanh" (Xuân Diệu) thì đã quá muộn. Anh chỉ có thể đứt ruột mà thốt lên lời tiếc nuối. Sự tiếc nuối càng có ý nghĩa lớn vì cô gái là bông hoa xanh biếc - bông hoa hiếm hoi tưởng như không có thật trên đời!

Cái màu xanh biếc tưởng chừng bất hợp lý, không thể phù hợp với hoa tầm xuân, hóa ra lại rất có lý trong tâm trí chàng trai công phu tìm kiếm!

Bài đăng Báo Giáo dục & Thời đại, số 161, ngày 7/7/2025

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bàn tròn kỳ 36: Khi nhà thơ bị “vô hình” trong ca khúc phổ thơ
Có một nghịch lý đáng buồn trong đời sống âm nhạc – thơ ca: ca khúc phổ thơ thì nhiều, nhưng tên nhà thơ thường bị quên lãng.
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Khúc tri âm dịu dàng của một tâm hồn nữ tính
Tập thơ “Chữ gọi mùa trăng” của Triệu Kim Loan là thế giới nội tâm phong phú, đa chiều của một tâm hồn phụ nữ đầy trải nghiệm.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 35: Ai đang gieo “tin giả” trong văn học?
Ai mới thật sự gieo “tin giả” vào lòng công chúng? Và phải chăng chính sự thiếu minh bạch, thiếu chính trực của những người cầm bút mới là “chất độc” đầu độc niềm tin văn học hôm nay?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 34: Hư cấu nghệ thuật trong phim “Mưa đỏ”
Một tác phẩm nghệ thuật thành công không nằm ở việc tái hiện chính xác từng chi tiết, mà ở chỗ khơi dậy tình yêu nước và lòng biết ơn cha anh, để lịch sử tiếp tục sống động trong tâm thức nhiều thế hệ.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 33: Khi “cái kết nhân văn” đi nhanh hơn tâm lý nhân vật
Truyện muốn nhấn mạnh tình máu mủ nhưng lại quên rằng tình phụ tử cũng cần thời gian và sự bồi đắp. Khi sự hòa giải diễn ra quá nhanh, cái nhân văn mà tác giả mong muốn dễ trở thành “nhân văn nóng vội”, chưa kịp đi qua những ngập ngừng, day dứt – vốn là hơi thở của đời thường.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 32: Nguyễn Duy và tiếng chuông gọi tên mười loại phê bình
Bài văn tế đặc biệt của nhà thơ Nguyễn Duy – một lời cảnh tỉnh, một tiếng chuông thức tỉnh từ một thi sĩ từng trải
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 31: Trăm Ngàn – từ cẩu thả chữ nghĩa đến vụng về truyền thông
Lần này, chúng ta hãy nghe hai cây bút vốn được xem là “những kẻ lắm chuyện” – TS Hà Thanh Vân và nhà văn Đặng Chương Ngạn nói gì? Một người đào sâu từ góc độ truyền thông – giữa báo chí chính thống và mạng xã hội, một người lại lật tung những chi tiết cẩu thả và phi lý trong chính văn bản truyện.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 30: Khi ý tưởng bị đánh tráo
Bàn tròn Văn học kỳ 30 xin mời bạn đọc cùng đối thoại về câu chuyện này – không phải để truy cứu cá nhân, mà để suy nghĩ sâu xa hơn: văn chương sẽ đi về đâu, nếu lòng tin của người viết trẻ bị phản bội và lòng tin của công chúng bị bỏ rơi?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 29: Phản biện ẩn danh - Dũng khí hay sự né tránh?
Trong Bàn tròn kỳ này, câu chuyện nói về hiện tượng phản biện văn chương dưới những cái tên xa lạ, thậm chí là ẩn danh.
Xem thêm
Thi pháp của thơ ngắn – Trường hợp Mai Quỳnh Nam
Trong tất cả các thể loại văn học, thơ ca là nơi ưu tiên hàng đầu cho các hình thức ngắn gọn. Điều này không chỉ thể hiện ở độ dài khiêm tốn của các tập thơ mà còn nằm ở đặc trưng nội tại của thơ, vốn hướng đến sự cô đọng hơn so với các thể loại khác (như tiểu thuyết).
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 28: Minh bạch – từ chuyện nhỏ đến vấn đề lớn
Bàn tròn Văn học kỳ 28 không nhằm khơi gợi thị phi, càng không phải góp gậy góp đá “đánh hội đồng” một tổ chức nghề nghiệp mà chính “thư ký bàn tròn” này được vinh dự là hội viên.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 27: Công bằng trong xét giải - Từ quy chế đến thực tiễn
Giải thưởng văn học hằng năm của Hội Nhà văn Việt Nam đang đối diện một nghịch lý: quy chế một đằng, thực tế một nẻo.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” - Hành trình từ chiến trường đến nhân sinh
Lời ru bão giông của Trần Hóa không chỉ là một tập thơ, mà là bản hòa tấu của ký ức, trải nghiệm và những suy ngẫm về đời sống.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 26: Khi công bằng bị bỏ quên, im lặng trở thành câu trả lời
Bàn tròn Văn học kỳ này xin giới thiệu nội dung tóm lược của hai bức thư ngỏ – coi đó như một lời chất vấn trực diện, một thử thách đối với tính minh bạch và liêm chính của một cuộc thi văn chương quốc gia.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 25: Minh bạch là điều kiện sống còn của uy tín văn chương
Bàn tròn kỳ 25 chọn hai bài viết mới nhất của nhà văn Đặng Chương Ngạn về “thầy Uông” – thành viên Hội đồng Sơ khảo – như chất liệu để trao đổi thẳng thắn.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 24: Trăm Ngàn câu hỏi, một chữ Minh bạch
Xin mời bạn đọc cùng ngồi lại, để lắng nghe, để bàn luận, và biết đâu, để cùng trả lời câu hỏi day dứt: Liệu văn chương Việt có thể đứng thẳng bằng phẩm giá của nó, hay sẽ mãi lẫn lộn trong những “trăm ngàn” trò chơi lợi ích?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 23: Giải thưởng, danh hiệu và chuẩn mực văn chương hôm nay
Nếu ở các kỳ trước, chúng ta chủ yếu xoay quanh truyện ngắn Trăm Ngàn, thì lần này, hai ý kiến góp mặt mở rộng vấn đề sang một góc nhìn gai góc hơn: chuyện “lợi ích nhóm” trong đời sống văn học – nghệ thuật.
Xem thêm
Những câu thơ thức “canh chừng lãng quên”
Với cảm hứng từ hai tứ thơ độc đáo – Cõng bạn đi chơi của Vương Cường và Dìu mẹ đi thăm mộ mình của Hồ Minh Tâm – bài viết của Bùi Sỹ Hoa (đăng trên Tạp chí Sông Lam, số 7/2025) đưa người đọc bước vào thế giới thơ về đề tài thương binh – liệt sĩ bằng một góc nhìn mới mẻ, giàu sức ám ảnh.
Xem thêm