TIN TỨC
icon bar

Nét vẽ tươi tắn bằng thơ

Người đăng: nguyenhung
Ngày đăng: 2025-11-07 10:28:16
mail facebook google pos stwis
52 lượt xem

Một năm trước, “Ký họa thơ (81 chân dung văn học)” được tái bản trong sự đón nhận ấm áp của bạn đọc. Thú thực, tôi không coi tập sách ấy là tập thơ mà chỉ là một cuộc tri ân bằng chữ dành cho những nhà văn, nhà thơ – đã đi trước, đã đứng ngay cạnh, đã đi qua đời sống chữ nghĩa Việt Nam.

Hôm nay, tôi muốn chia sẻ lại bài viết của nhà văn Nguyễn Trường – người đã nhìn tập “Ký họa thơ” không chỉ bằng phê bình mà còn bằng sự thấu cảm. Anh gọi những nét vẽ đó là những nét vẽ tươi tắn bằng thơ – nơi không có giễu nhại, không hạ thấp, không chọc lét – mà là cố gắng phác họa một góc nào phần người, phần đẹp, phần tài hoa – giữa bao nhiêu cái mong manh và ly tán của đời viết.

Một lần nữa xin cảm ơn nhà văn Nguyễn Trường – vì đã đọc tôi bằng trái tim thấu cảm.

Nhà văn Nguyễn Trường và bìa Ký họa thơ (tái bản).
 

NGUYỄN TRƯỜNG

Ký họa thơ là tập thơ Nguyên Hùng dùng thơ “vẽ” nhanh chân dung văn nghệ sỹ. Phương pháp thường dùng tên các tác phẩm của các tác giả ghép lại thành câu thơ có nghĩa, lại khắc họa được tính cách và phần nào tổng kết được quá trình sáng tác của văn nghệ sĩ đó. Cách làm này không mới, nhiều người đã làm, thành công và nổi bật nhất là nhà thơ Xuân Sách với tác phẩm “Chân dung nhà văn” NXB Văn học 1992. Xuân Sách dùng những nét biếm họa để vẽ lên gương mặt các nhà văn nên chân dung của họ bị biến dạng. Nguyên Hùng lại khác, cũng dùng phương pháp vẽ chân dung văn nghệ sỹ bằng thơ, nhưng nét vẽ tươi tắn. Chưa nói về mặt thành công về nghệ thuật của tập thơ, riêng về tấm lòng, Nguyên Hùng đã để lại tấm chân tình đáng trân trọng.

Hồi nhà văn Nguyễn Khải còn tại thế, tôi có hỏi ông về cuốn “Chân dung văn học” của Xuân Sách. Trong đó Xuân Sách có vẽ chân dung nhà văn Nguyễn Khải, ông cười: “Mình thì Xuân Sách vẽ thế nào cũng được, hài hước cho vui thôi, nhưng chân dung về phụ nữ mà đụng đến nhân phẩm của họ thì không nên, ví dụ như: “Đất làng vừa một tấc/ Bao nhiêu người đến cày”, họ còn có bà con, họ hàng, thậm chí sui gia... viết như thế ai mà chịu được”. Còn nhà văn Hào Vũ, lúc mới tốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du về đọc một số bài thơ trong cuốn “Chân dung nhà văn”, tôi hỏi anh: “Xuân Sách có viết về anh không?” Hào Vũ nghiêm mặt tỏ vẻ quan trọng: “Chỉ có 100 người nổi tiếng thôi, mình chưa đủ tiêu chuẩn”. Hóa ra, để được chọc tức cũng phải là nhà văn tên tuổi. Bây giờ Nguyên Hùng ký họa 81 chân dung văn học, anh không chọc lét ai, không mang những thất bại, những nhược điểm của ai ra để giễu nhại. Nguyên Hùng chủ yếu đề cao những thành công của các văn nghệ sĩ, có vài chỗ anh cũng hài hước, xoáy vào nỗi đau của nhân vật, nhưng là nỗi đau do thời cuộc, do khách quan mang lại. Ví dụ như chân dung Hoàng Cát: “Một chân mất bởi chiến tranh/ Một chân còn lại ông Lành bẻ đôi”. Người đọc hiểu, hai câu thơ chơi chữ rất tài tình. Nhà thơ Hoàng Cát từng đi lính, vào chiến trường B, bị thương, mất một chân. Về giải ngũ, lại dính vào vụ truyện ngắn “Cây táo ông Lành”. Đó là một truyện viết cho thiếu nhi, nêu cao tinh thần nhân hậu của ông già tên Lành. Nhưng truyện bị suy diễn, gán ghép cho một vị quan chức trên trung ương, thế là Hoàng Cát bị mất việc, bị đình chỉ sáng tác mất mấy chục năm, mà chỉ có lệnh miệng của một vị quan chức nào đó. Có khác chi Hoàng Cát còn một chân đã bị ông Lành bẻ đôi, còn đi đứng làm ăn gì được? Chữ lành, mà không lành, nó đã thành tai họa, mới thấy hai câu thơ trên thật hay, nó vẽ được chân dung Hoàng Cát với số phận bi thương! Nhạc sĩ Văn Cao lại có bi kịch khác. Ông bị quy trong nhóm Nhân văn giai phẩm, mấy chục năm khốn khổ, mặc dù “Tiến quân ca” được dùng làm quốc ca. Bản nhạc “Mùa xuân đầu tiên” sáng tác năm 1976, mừng đất nước thống nhất nhưng bị cấm trong 24 năm, đến tuổi bạc đầu bài hát mới được công nhận. Câu thơ “Bạc đầu chờ mùa xuân đầu tiên” và câu kết “Buồn tàn thu ám vận suốt một đời”, càng nổi bật những bi kịch trong cuộc đời Văn Cao. Có khi là vì thời cuộc Xuân Diệu phải sống và làm thơ khác trước, khác với chất thi sỹ của ông: “Từ khi ngói mới nhà cao/ Hương Xuân dường đã hòa vào mênh mông”. Còn nhiều bi kịch của các tác giả khác nữa, nhưng thôi, tôi chỉ dẫn ra 3 nhân vật tiêu biểu để nói về nét vẽ của Nguyên Hùng, cũng là nét vẽ màu tối nhưng là “Vẽ mây nẩy trăng”, vẽ góc tối càng nổi bật nét sáng của nhân vật.

Nhưng chủ đạo vẫn là nét vẽ trực diện, nét vẻ tươi sáng, nêu bật được những thành công của tác giả, qua đó thấy văn tài của từng người. Hầu như bài nào anh cũng vẽ bằng hai câu thơ mở đầu khá hay, đặc biệt là dùng tên tác phẩm của nhân vật để dẫn vào thơ rất tự nhiên: Với Thu Bồn: “Trên những đám mây màu cánh vạc/ Anh làm người vắt sữa bầu trời; với Hoàng Cầm: “Sinh ra ở bên kia sông Đuống/ Tình thơ bay không dừng bến sông Hồng”; với Hoàng Nhuận Cầm: “Tạm buông bút lên đường làm lính/ Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu”; với Huy Cận: “Lửa thiêng soi vũ trụ ca/ Người vui gọi đất nở hoa theo người”; với Lâm Thị Mỹ Dạ: “Trái tim sinh nở dịu dàng/ Dáng mềm nghiêng ngả bao chàng tài hoa”; với Nguyễn Khoa Điềm: “Sinh ra từ đất ngoại ô/ Vượt qua cửa thép mà vô Hoàng Thành”... 

Giá mà Nguyên Hùng phỏng theo phong cách thơ của tác giả để vẽ về tác giả đó sẽ lý thú hơn nữa. Như Xuân Sách viết về Chế Lan Viên bằng kiểu thơ của Chế: “Thay đổi cả cơn mơ/ Ai dám bảo con tầu không mộng tưởng/ Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng”.

Chỉ trong mấy câu thơ ngắn, Nguyên Hùng đã vẽ được tính cách nhân vật bằng chính chất liệu là tên tác phẩm của người đó, nếu anh không đề tên tác giả mà cũng đánh số bài như Xuân Sách, người đọc vẫn dễ dàng nhận ra anh đang “vẽ” nhân vật nào. Nói về Nguyễn Bính, người ta nghĩ đến tác giả của những bài thơ chân quê: “Chân quê đồng nội còn lưu dấu/ Chanh nở vườn chanh tím ngẩn ngơ”; Hoàng Nhuận Cầm với những bài thơ tình yêu cháy bỏng và có nhiều bóng hồng đi qua cuộc đời thi sĩ. Hai câu kết bài thơ về Hoàng Nhuận Cầm vừa chơi chữ vừa nổi bật chân dung thi sĩ tài hoa: “Vẫn tỉ tê thơ tuổi hai mươi/đằng sau cánh cửa/ Để nhuận vợ mấy lần vẫn cầm tuổi hoàng hôn”; một Lâm Thị Mỹ Dạ dịu dàng, thương người, nhưng cuối đời mắc bệnh mất trí nhớ: “Thả mây cho gió... đâu ngờ/ Thơ không năm tháng mà giờ đã quên”; đó là Nguyễn Duy, sống xù xì như đám đất hoang, luôn trăn trở với quê hương, đất nước, muốn dùng thơ để đánh thức tiềm lực còn ngủ quên: “Một đời tỉnh, nhớ và ghi/ Nhận ra tiềm lực từ khi mịt mờ/ Gõ chuông đánh thức sư mù/ Mòn dùi thầy vẫn âm u tháng ngày”; đó là Trương Nam Hương tài hoa và tình si: “Sông Hương biết chảy theo vần/ Tài hoa đắm đuối hai lần mắt răm”; đó là Nguyễn Khải sâu sắc, muốn cựa quậy vượt thoát chính mình: “Tóc xanh bước lạc trong mùa lạc/ Đến bạc đầu đi tìm cái tôi”; đó là Lê Thiếu Nhơn, chàng trai trẻ nhanh nhảu, đa tài và bộc trực: “Ghét yêu thẳng tuột, trụi trần/ Lắm phen méo miệng, mặt nhăn vẫn cười”; đó là Nguyễn Bình Phương “Là nhà văn quyết làm mới thi ca” và cả thơ và văn xuôi đều thành công: “Mình và họ và cả người đi vắng/ Đâu phải ví dụ xoàng một phong cách văn chương”; đó là Nguyễn Quang Sáng sống phóng khoáng, bộc trực kiểu anh Hai Nam bộ, viết văn và nhậu lai rai: “Ông là Năm Sáng - anh Hai/ Viết nhanh nhưng nhậu lai rai/ vội gì”; đó là Nguyễn Trọng Tạo, thành công cả thơ và nhạc, là nghệ sĩ đa tình, nhiều khi mắc nạn: “Tình yêu như thể chiến hào/ Tên bay đạn lạc phía nào cũng...em”. Nhà văn Khuất Quang Thụy cũng giống Nguyễn Trọng Tạo, vừa viết văn vừa né tránh “tên bay đạn lạc” từ “phía nào cũng... em”, mặc dù ông đã từng: “Nửa đời giữ bếp văn xuôi/ Ngược qua tường lửa làm người cầm cương”; đó là Lưu Quang Vũ nổi tiếng một thời với thơ, với kịch, nhưng tai nạn bất ngờ giáng xuống gia đình thi sỹ với nhiều nghi vấn: “Người trong cõi nhớ ơi, ai là thủ phạm/ Để công lý được đòi bất chấp những chiếc ô”.

Thành công của Ký họa thơ, trước hết là trong tập có nhiều câu thơ hay, khổ thơ hay, đa dạng về thể loại thơ. “Họa sĩ” không những “vẽ” được diện mạo từng nhân vật mà còn thể hiện được cái thần của họ qua tính cách, số phận của các văn nghệ sĩ với trái tim nồng ấm yêu thương.

Quận 7, TP. Hồ Chí Minh, 9/2024

 (Rút từ cuốn “Gặp gỡ những vùng văn học” của Nguyễn Trường, Nxb Thanh Niên, 11/2024).

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bàn tròn kỳ 37: Văn học và điện ảnh – Từ trang sách đến màn ảnh
Khi văn học bước vào phim hành động, cần giữ gì của nguyên tác và chấp nhận hy sinh gì cho nhịp điệu màn ảnh?
Xem thêm
Tính nhân văn và hiện thực trong Hoàng hôn lóng lánh
(Đôi điều về tiểu thuyết “Hoàng hôn lóng lánh”, Nxb Văn học, 2024)
Xem thêm
Tản mạn chuyện... thẩm thơ
Tôi không nhớ chính xác đã đọc bài tổng kết cuộc thi thơ của Xuân Diệu vào năm nào, nhưng ấn tượng về sự tinh tế của ông hoàng thơ tình này vẫn còn mãi. Có hai ví dụ về những góp ý của nhà thơ Xuân Diệu mà tôi không thể quên.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 36: Khi nhà thơ bị “vô hình” trong ca khúc phổ thơ
Có một nghịch lý đáng buồn trong đời sống âm nhạc – thơ ca: ca khúc phổ thơ thì nhiều, nhưng tên nhà thơ thường bị quên lãng.
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Khúc tri âm dịu dàng của một tâm hồn nữ tính
Tập thơ “Chữ gọi mùa trăng” của Triệu Kim Loan là thế giới nội tâm phong phú, đa chiều của một tâm hồn phụ nữ đầy trải nghiệm.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 35: Ai đang gieo “tin giả” trong văn học?
Ai mới thật sự gieo “tin giả” vào lòng công chúng? Và phải chăng chính sự thiếu minh bạch, thiếu chính trực của những người cầm bút mới là “chất độc” đầu độc niềm tin văn học hôm nay?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 34: Hư cấu nghệ thuật trong phim “Mưa đỏ”
Một tác phẩm nghệ thuật thành công không nằm ở việc tái hiện chính xác từng chi tiết, mà ở chỗ khơi dậy tình yêu nước và lòng biết ơn cha anh, để lịch sử tiếp tục sống động trong tâm thức nhiều thế hệ.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 33: Khi “cái kết nhân văn” đi nhanh hơn tâm lý nhân vật
Truyện muốn nhấn mạnh tình máu mủ nhưng lại quên rằng tình phụ tử cũng cần thời gian và sự bồi đắp. Khi sự hòa giải diễn ra quá nhanh, cái nhân văn mà tác giả mong muốn dễ trở thành “nhân văn nóng vội”, chưa kịp đi qua những ngập ngừng, day dứt – vốn là hơi thở của đời thường.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 32: Nguyễn Duy và tiếng chuông gọi tên mười loại phê bình
Bài văn tế đặc biệt của nhà thơ Nguyễn Duy – một lời cảnh tỉnh, một tiếng chuông thức tỉnh từ một thi sĩ từng trải
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 31: Trăm Ngàn – từ cẩu thả chữ nghĩa đến vụng về truyền thông
Lần này, chúng ta hãy nghe hai cây bút vốn được xem là “những kẻ lắm chuyện” – TS Hà Thanh Vân và nhà văn Đặng Chương Ngạn nói gì? Một người đào sâu từ góc độ truyền thông – giữa báo chí chính thống và mạng xã hội, một người lại lật tung những chi tiết cẩu thả và phi lý trong chính văn bản truyện.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 30: Khi ý tưởng bị đánh tráo
Bàn tròn Văn học kỳ 30 xin mời bạn đọc cùng đối thoại về câu chuyện này – không phải để truy cứu cá nhân, mà để suy nghĩ sâu xa hơn: văn chương sẽ đi về đâu, nếu lòng tin của người viết trẻ bị phản bội và lòng tin của công chúng bị bỏ rơi?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 29: Phản biện ẩn danh - Dũng khí hay sự né tránh?
Trong Bàn tròn kỳ này, câu chuyện nói về hiện tượng phản biện văn chương dưới những cái tên xa lạ, thậm chí là ẩn danh.
Xem thêm
Thi pháp của thơ ngắn – Trường hợp Mai Quỳnh Nam
Trong tất cả các thể loại văn học, thơ ca là nơi ưu tiên hàng đầu cho các hình thức ngắn gọn. Điều này không chỉ thể hiện ở độ dài khiêm tốn của các tập thơ mà còn nằm ở đặc trưng nội tại của thơ, vốn hướng đến sự cô đọng hơn so với các thể loại khác (như tiểu thuyết).
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 28: Minh bạch – từ chuyện nhỏ đến vấn đề lớn
Bàn tròn Văn học kỳ 28 không nhằm khơi gợi thị phi, càng không phải góp gậy góp đá “đánh hội đồng” một tổ chức nghề nghiệp mà chính “thư ký bàn tròn” này được vinh dự là hội viên.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 27: Công bằng trong xét giải - Từ quy chế đến thực tiễn
Giải thưởng văn học hằng năm của Hội Nhà văn Việt Nam đang đối diện một nghịch lý: quy chế một đằng, thực tế một nẻo.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” - Hành trình từ chiến trường đến nhân sinh
Lời ru bão giông của Trần Hóa không chỉ là một tập thơ, mà là bản hòa tấu của ký ức, trải nghiệm và những suy ngẫm về đời sống.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 26: Khi công bằng bị bỏ quên, im lặng trở thành câu trả lời
Bàn tròn Văn học kỳ này xin giới thiệu nội dung tóm lược của hai bức thư ngỏ – coi đó như một lời chất vấn trực diện, một thử thách đối với tính minh bạch và liêm chính của một cuộc thi văn chương quốc gia.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 25: Minh bạch là điều kiện sống còn của uy tín văn chương
Bàn tròn kỳ 25 chọn hai bài viết mới nhất của nhà văn Đặng Chương Ngạn về “thầy Uông” – thành viên Hội đồng Sơ khảo – như chất liệu để trao đổi thẳng thắn.
Xem thêm