TIN TỨC
icon bar

Có một cánh buồm thơ đang hát

Người đăng: nguyenhung
Ngày đăng: 2025-12-05 19:35:11
mail facebook google pos stwis
98 lượt xem

PGS.TS NGUYỄN ĐỨC HẠNH

Trương Vạn Thành là một nhà thơ tài hoa, đã xuất bản trên 10 tập thơ và đạt được nhiều giải thưởng về thơ của địa phương và trung ương. Hiện ông đang sống và viết tại Thanh Hóa. Ông là Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Thanh Hóa, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Qua tập thơ “BẢN TÌNH CA CÁNH BUỒM” và các tập thơ đã xuất bản, Trương Vạn Thành đã hình thành một phong cách nghệ thuật giàu trí tuệ, có sự giao thoa hài hòa giữa tính chính luận và cảm xúc lãng mạn bay bổng.

Nhà thơ Trương Vạn Thành và tập thơ "Bản tình ca cánh buồm"

1. Tính trí tuệ bừng sáng từ vốn sống giàu có và tầm văn hóa cao

Tập thơ “BẢN TÌNH CA CÁNH BUỒM” không chỉ lôi cuốn bởi sự đắm say tình cảm, mà còn hấp dẫn bởi chiều sâu trí tuệ được chiết lọc từ vốn sống phong phú và năng lượng thẩm mỹ giàu có của nhà thơ. Thơ Trương Vạn Thành luôn hàm chứa những suy tư về cuộc đời, nghệ thuật và thân phận con người, không hô khẩu hiệu hay đao to búa lớn, mà nhẹ nhàng, từ tốn nhưng giàu sức ám ảnh.

Trong bài “Chiếc lá Vàng rơi” (tr. 21), ông viết:

“dẫu biết một mai thành lá mục
dẫu biết lại qua dưới chân người
một đời chăm chút cho màu lá
chín vàng rơi xuống, sắc vàng thu”

Qua hình ảnh chiếc lá vàng rơi, nhà thơ đã xây dựng một ẩn dụ về vòng đời con người – từ sinh ra, lớn lên đến lụi tàn. Nhưng điều đáng quý không phải là sự tồn tại dài lâu, mà là “một đời chăm chút cho màu lá” – sống trọn vẹn, tận hiến và có ích. Đó là cái nhìn thấm nhuần triết lý sống Đông phương: chấp nhận quy luật vô thường nhưng không bi quan, mà tận lực sống đẹp, sống tử tế.

Còn trong bài “Xếp chữ” (tr. 68), ông chiêm nghiệm:

“Chỉ là xếp, xếp thôi
Những con chữ rạc rời
Y như là ma thuật
Bỗng hát lên tình người”

Câu thơ tưởng như giản dị nhưng mở ra một chiều sâu tư tưởng về ngôn từ nghệ thuật. Chữ nghĩa – dù rời rạc và vô hồn – khi đi qua trái tim, qua sự cảm nhận và dụng công của thi nhân, sẽ có thể ngân lên giai điệu tình người. Đây là một quan niệm văn chương đầy nhân bản và giàu tính thẩm mỹ.

Đặc biệt, trong bài thơ cô đọng “Tuyên ngôn Nghệ thuật; Gửi bạn thơ” (tr. 11), ông đúc kết:

“Chỉ thực không mơ buồn chết chắc
Chỉ mơ không thực đói vàng răng
Thuyền ai ngự giữa dòng mơ - thực
Lưới cất, vàng reo… cá lẫn trăng!”

Thơ – theo ông – không thể chỉ là thực tế khô khốc hay mộng tưởng vu vơ. Thi sĩ là người đi giữa “dòng mơ - thực”, là người giữ được thăng bằng giữa đời sống và ước mơ, giữa hiện thực và lý tưởng. Trong thế giới thơ của Trương Vạn Thành, cảm xúc đắm say không tách rời suy tư trí tuệ. Chính điều đó tạo nên một giọng điệu thơ riêng – vừa mê đắm, vừa tỉnh táo, vừa lãng mạn, vừa từng trải, giàu chất liệu hiện thực.

2. Ba nguồn cảm hứng đắm say trong tập thơ dày dặn, sang trọng

2.1. “Tháng Sáu” – Cảm hứng về nhân tình thế thái và những triết luận giàu tính nghiệm sinh

Phần thơ này là một dòng hồi tưởng, nơi nhà thơ soi chiếu lại những chiều sâu của cuộc sống: từ thời ấu thơ, từ bóng dáng mẹ tảo tần, cho đến những băn khoăn triết lý về thân phận con người. Dưới ánh sáng của trải nghiệm, mỗi vần thơ là một nốt trầm suy tư về phận người trong dòng chảy của thời đại.

Trong bài “Viết cho ngày tháng Sáu” (tr. 68), ông thổ lộ:

“Mẹ sinh con giữa ngày nắng gắt
Rồi mẹ hao gầy trong tiếng ve
Đời mẹ giọt mồ hôi mặn chát
Tất tưởi sớm hôm, gồng gánh cả trưa hè”

Bốn dòng thơ vừa cụ thể vừa khái quát. Mẹ là biểu tượng của sự hy sinh âm thầm, là hiện thân của thế hệ đã trải qua bao mất mát thời chiến và hậu chiến. Cuộc đời mẹ - một đời tất bật - cũng là hình ảnh biểu trưng cho thân phận người dân quê trong lịch sử Việt Nam hiện đại – những con người cần lao của quê hương, đất nước. Hình tượng người mẹ mang tính điển hình cao.

Trong bài “Làng Nủ” (tr. 58), ông viết:

“Làng Nủ đã thành tâm lũ
Tiếng kêu thương nghẹn thắt tim người”

Thiên tai – ở đây là trận lở núi – không chỉ hủy hoại vật chất mà còn trở thành biểu tượng cho những biến cố nghiệt ngã của thời đại. Nhưng giữa hoạn nạn, tình người lại bừng sáng – một quy luật mang tính nhân bản mà ông luôn khẳng định.

Còn trong “Xem thi hoa hậu” (tr. 48), ông thốt lên:

“Thương quan hoạn xưa tuyển mỹ nữ cung tần
Kẻ thực thi thì đã hoạn
Đau hết phần con, đau hết phận người…”

Bài thơ không chỉ dừng lại ở một hiện tượng xã hội, mà qua đó nhà thơ truy nguyên đến căn tính của quyền lực, dục vọng và sự đánh đổi giá trị con người. Đó là một cái nhìn tỉnh táo, đầy xót xa nhưng vẫn tràn đầy tình yêu thương con người.

2.2. “Thơ tình buổi sáng đầu tiên” – Khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu sau bao chiêm nghiệm, thử thách

Tình yêu trong phần thơ này không cuồng nhiệt, sôi nổi như tuổi trẻ, mà sâu đằm, thiết tha và lắng đọng theo thời gian. Nó được tôi luyện trong đời sống, vượt qua biến cố để trở thành một tình yêu vĩnh cửu. Tình yêu ấy như ngọc càng mài càng sáng, như vàng mười được tôi qua lửa đỏ.

Trong bài “Thơ tình buổi sáng đầu tiên” (tr. 105), ông viết:

“Ngôi nhà thân thương
Cháu con chưa về vui năm mới
Mình như ngày xưa son rỗi”

Giữa khung cảnh tết đến, hai vợ chồng già quây quần trong ngôi nhà nhỏ, thi sĩ lại cảm nhận được cái “son rỗi” như ngày mới yêu nhau. Sự giản dị của đời sống chính là nơi tình yêu được ươm mầm, chín dần và đơm hoa kết trái.

Còn trong “Em đừng khóc kẻo thu buồn lắm đấy!” (tr. 104), ông thổ lộ:

“Tình đằm thắm trăng quê rười rượi
Duyên mặn nồng, em hát ru nôi…”

Hình ảnh người vợ hát ru con trong ánh trăng quê không chỉ gợi nên hạnh phúc gia đình, mà còn làm sống dậy khát vọng yêu thương được nâng niu và trao truyền qua từng thế hệ. Những kỷ niệm dù buồn hay vui luôn là sợi dây kỳ diệu buộc chặt hai trái tim làm một.

Trong một bài khác, ông lặng lẽ chiêm nghiệm:

“Tình ta không tuổi già” (Bài thơ mới viết, tr. 107)

Lời thơ như một tuyên ngôn lặng thầm nhưng mãnh liệt: yêu thương chân thành sẽ bất chấp tuổi tác, thời gian. Đó là khát vọng “vĩnh cửu hóa tình yêu” qua bao thử thách, lắng kết, qua bao năm tháng bão giông…

2.3. “Xin quỳ trước đá” – Cảm hứng phức hợp với cái nhìn đa chiều, chiêm nghiệm

Nếu như phần 1 tập trung vào cảm hứng triết luận về nhân tình thế thái mang tính nghiệm sinh, phần 2 xoáy sâu vào khát khao vĩnh cửu hóa tình yêu lứa đôi trong cái nhìn từng trải, thì phần 3 mang một cảm hứng phức hợp. Chúng ta nhận ra ba mạch cảm hứng chảy ngầm trong câu chữ. Sau những bay bổng của cảm xúc lãng mạn là những triết lý sâu sắc về sự đổi thay của dòng thời gian lịch sử, về những thân phận bi hùng trong chiến tranh, về quê hương đất nước đang từng ngày đổi mới.

2.3.1. Cảm hứng lịch sử với những “bãi bể nương dâu” của thời gian
Có hàng loạt thi phẩm được sáng tác theo mạch cảm hứng này, với số lượng bài áp đảo: “Về Hàn Sơn”, “Đèn trời”, “Thành Tây Đô”, “Mùng một tết viếng mộ Vua Lê”, “Thiền viện Trúc Lâm Hàm Rồng”, v.v...
Có thể nói, cảm hứng lịch sử dâng trào trong cái nhìn nghệ thuật về hôm qua và hôm nay, về sự thay đổi, thậm chí tàn phai của các công trình hữu hình, nhưng cũng khẳng định sự vĩnh cửu của những giá trị tinh thần đã kết tinh thành bản sắc văn hóa quê hương, đất nước.

“Sáu trăm năm
Con tạo xoay vần
Sao dời vật đổi
Lẽ thịnh, suy, hưng, phế bao triều
Chính, tà , công , tội, ghét, yêu
Xin đá một lời phán xử...”
*(Thành Tây Đô, tr.182-197)*

Ở phần này, biểu tượng Đá xuất hiện đầy ám gợi. Đá vừa là biểu tượng cho lòng dân sáng suốt – vừa nghiêm khắc vừa bao dung trước mọi hiện tượng lịch sử, vừa là biểu tượng cho thời gian thử thách, phán xử công minh nhất.

Đến bài “Côn Sơn”, có những dòng lục bát thật hay về Danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi:

“Hương trầm quyện khói sương mơ
Hồn xưa đã biếc mấy bờ thông reo”
*(Côn Sơn , tr.191-192)*

Thời gian và lòng dân đã trả lại danh thơm và sự bất tử cho Nguyễn Trãi – Danh nhân phải gánh oan khiên khủng khiếp nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

Bài thơ “Sông Mã Hàm Rồng” đã điệp lại hai câu thơ bất hủ của Trương Hán Siêu, nhằm khẳng định lại một lần nữa chân lý vĩnh hằng ấy:

“Nhớ câu “…bất nghĩa tiêu vong
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh”
(Sông Mã Hàm Rồng, tr.175)

2.3.2. Cảm hứng cảm thương - ngợi ca dành cho những thân phận bi hùng trong chiến tranh
Bài thơ “Người thương binh già và tiếng đàn bầu trong đêm” viết theo thể tự do, có những câu dài như tiếng đàn bầu trong đêm, có những câu ngắn, ngắt nhịp rời rạc như từng giọt lệ thầm rơi xuống thời gian:

“Người thương binh già ôm mặt khóc
Anh bảo đó là tiếng người vợ lính
Cưới nhau ba ngày phép
Rồi đi...
đi mãi…”
(Người thương binh già và tiếng đàn bầu trong đêm, tr.216)

Những người lính là anh hùng nơi chiến trận. Những người vợ lính có chồng ba ngày phép rồi chờ đợi bao nhiêu năm, họ cũng là những anh hùng trên “mặt trận thầm lặng không tiếng súng”. Chưa có bảng vàng bia đá cho họ? Thì thơ ca sẽ khắc tạc hình tượng họ bằng ngôn từ!

Cũng với cảm hứng ấy, Trương Vạn Thành viết về “Hang Tám cô” với bao nước mắt chảy vào bên trong:

“Xe qua những phố những làng
Những con đường với hai hàng cờ sao
Những con đường thắm máu đào
Tiếng chuông nguyện... thấu trời cao chín tầng.”
*(Viếng hang tám cô đường hai mươi, tr.181-182)*

2.3.3. Cảm hứng yêu mến, tự hào trước sự đổi mới, hạnh phúc của quê hương, đất nước
Xét theo nghĩa hiển ngôn, phần 3 này là hành trình “xê dịch” gắn với các địa danh, di tích lịch sử - văn hóa của đất nước, của thế giới. Nhưng đào sâu vào các lớp nghĩa hàm ngôn thì đây là hành trình trải nghiệm - khám phá về văn hóa. Trên hành trình ấy, nhà thơ bồi hồi trước sự đổi thay tràn đầy hạnh phúc của quê hương, đất nước.

“Bài thơ viết trên hồ Yên Mỹ
Chiếc cầu chia hai nửa đam mê
Bên này trăng mãi soi kỷ niệm
Bên kia trời lai láng bình minh.”
(Về thăm Nông Cống, tr.217)

Hay là:

“Thuyền ơi rời bến thật khẽ
Đêm sông Hàn pha lê
Đôi bờ nạm ngọc
Ánh đèn như sao đi ...”
(Trong đêm sông Hàn , tr.245)

Các bài thơ “Trong đêm Hạ Long”, “Đước”, “Tâm hồn ta xanh biếc đước Cà Mau”... cũng được viết bằng mạch cảm hứng thắm thiết yêu thương, tự hào này.

Nếu có thể nói thêm khi bài viết đã khá dài, tôi chỉ muốn đề cập một nhược điểm nhỏ của tập thơ: đôi chỗ còn có sự “ôm đồm”, dẫn tới tình trạng “bài hay xen lẫn bài vừa”. Mong nhà thơ luôn lưu tâm lời dặn vàng ngọc của cha ông: “Quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Tuy nhiên, nhược điểm ấy cũng chỉ như giọt mưa lăn qua viên đá xứ Thanh thật đẹp có tên “Thơ Trương Vạn Thành”!

3. Biểu tượng nghệ thuật nổi bật: Biển

Biển là hình ảnh được lặp lại nhiều lần nhất trong tập thơ, hiện diện trong các bài như “Ơi biển chiều đông” (tr. 59), “Trước biển chiều nay” (tr. 30), “Thơ ru biển đêm” (tr. 42), “Tạm biệt Quy Nhơn” (tr. 227). Hình ảnh này không chỉ mang giá trị tạo hình mà còn là biểu tượng nghệ thuật mang nhiều tầng nghĩa.

Biển trong thơ Trương Vạn Thành là nơi khơi nguồn cảm xúc, là khoảng trời ký ức, là không gian suy tưởng. Ở đó, con người trở về với cái bao la, vô tận – để rồi từ đó soi chiếu nỗi cô đơn, tình yêu, sự sống và cả cái chết.

Biển cũng là hình ảnh của dòng chảy thời gian và không gian tâm tưởng. Nó gợi nhớ, níu giữ và cũng thả trôi mọi hữu hạn. Trong bài “Tạm biệt Quy Nhơn”, ông viết:

“Tâm hồn ta đã neo vào biển ấy”

Hình ảnh “neo” – cố định giữa muôn trùng sóng gió – là biểu trưng cho nhu cầu nương tựa vào những giá trị bền vững giữa một đời sống xô lệch và trôi dạt. Biển là biểu tượng cho thời đại đầy biến động, cho thế giới tâm hồn phong phú, đa dạng, và cho ước mơ về cái vô cùng, cái tuyệt đỉnh…

4. Kết luận: Giá trị và thông điệp nghệ thuật

Tập thơ “Bản tình ca cánh buồm” là một minh chứng cho sự kết hợp tài hoa giữa cảm xúc và trí tuệ. Giá trị nội dung nổi bật ở chiều sâu tư tưởng nhân văn, lắng đọng từ những trải nghiệm đời sống và những mối quan hệ thâm tình. Giá trị nghệ thuật thể hiện ở khả năng sử dụng ngôn ngữ tinh tế, thi ảnh độc đáo và biểu tượng nhất quán. Thông điệp mà nhà thơ gửi gắm là: hãy sống đẹp, sống trọn vẹn, sống vì tình yêu và lẽ phải. Dù cuộc đời nhiều vô thường, tình người – như cánh buồm bền bỉ – vẫn có thể vượt sóng đi về phía vĩnh hằng.

Từ những kỷ niệm đẹp trong tình yêu và hạnh phúc đời thường, từ những chuyến đi qua bao địa danh lịch sử - văn hóa của đất nước, của thế giới, từ những sự vật hiện tượng có thể rất bình thường, hiện diện bên đường, trong vườn mà ta qua, “con mắt xanh” của Trương Vạn Thành không chỉ phát hiện ra chất thơ trong đó, mà từ chất thơ ấy, những chiêm nghiệm – suy tư làm bật lên bao triết luận sâu thẳm về thân phận con người, về những biến động của bao thời đại.

Điều đáng quý nữa của hồn thơ này là sự khỏe khoắn, lạc quan, không chịu rơi vào bi lụy, dù nhân vật trữ tình có ở trong một hoàn cảnh không may mắn hay rơi vào thảm kịch buồn đau. Chính “sức sống mạnh mẽ” từ con người thi sĩ ngoài đời đã cuộn chảy, lấp lánh trong thơ, dù anh viết về đề tài gì, cảm hứng nào chăng nữa.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bàn tròn kỳ 38: Đẹp nhưng không giữ được nhiệt chữ?
Bái về một tâm thế viết – và một căn bệnh thẩm mỹ của văn chương Việt hôm nay.
Xem thêm
Nét vẽ tươi tắn bằng thơ
Bài của Nguyễn Trường - Rút từ cuốn “Gặp gỡ những vùng văn học” của Nguyễn Trường, Nxb Thanh Niên, 11/2024
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 37: Văn học và điện ảnh – Từ trang sách đến màn ảnh
Khi văn học bước vào phim hành động, cần giữ gì của nguyên tác và chấp nhận hy sinh gì cho nhịp điệu màn ảnh?
Xem thêm
Tính nhân văn và hiện thực trong Hoàng hôn lóng lánh
(Đôi điều về tiểu thuyết “Hoàng hôn lóng lánh”, Nxb Văn học, 2024)
Xem thêm
Tản mạn chuyện... thẩm thơ
Tôi không nhớ chính xác đã đọc bài tổng kết cuộc thi thơ của Xuân Diệu vào năm nào, nhưng ấn tượng về sự tinh tế của ông hoàng thơ tình này vẫn còn mãi. Có hai ví dụ về những góp ý của nhà thơ Xuân Diệu mà tôi không thể quên.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 36: Khi nhà thơ bị “vô hình” trong ca khúc phổ thơ
Có một nghịch lý đáng buồn trong đời sống âm nhạc – thơ ca: ca khúc phổ thơ thì nhiều, nhưng tên nhà thơ thường bị quên lãng.
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Khúc tri âm dịu dàng của một tâm hồn nữ tính
Tập thơ “Chữ gọi mùa trăng” của Triệu Kim Loan là thế giới nội tâm phong phú, đa chiều của một tâm hồn phụ nữ đầy trải nghiệm.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 35: Ai đang gieo “tin giả” trong văn học?
Ai mới thật sự gieo “tin giả” vào lòng công chúng? Và phải chăng chính sự thiếu minh bạch, thiếu chính trực của những người cầm bút mới là “chất độc” đầu độc niềm tin văn học hôm nay?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 34: Hư cấu nghệ thuật trong phim “Mưa đỏ”
Một tác phẩm nghệ thuật thành công không nằm ở việc tái hiện chính xác từng chi tiết, mà ở chỗ khơi dậy tình yêu nước và lòng biết ơn cha anh, để lịch sử tiếp tục sống động trong tâm thức nhiều thế hệ.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 33: Khi “cái kết nhân văn” đi nhanh hơn tâm lý nhân vật
Truyện muốn nhấn mạnh tình máu mủ nhưng lại quên rằng tình phụ tử cũng cần thời gian và sự bồi đắp. Khi sự hòa giải diễn ra quá nhanh, cái nhân văn mà tác giả mong muốn dễ trở thành “nhân văn nóng vội”, chưa kịp đi qua những ngập ngừng, day dứt – vốn là hơi thở của đời thường.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 32: Nguyễn Duy và tiếng chuông gọi tên mười loại phê bình
Bài văn tế đặc biệt của nhà thơ Nguyễn Duy – một lời cảnh tỉnh, một tiếng chuông thức tỉnh từ một thi sĩ từng trải
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 31: Trăm Ngàn – từ cẩu thả chữ nghĩa đến vụng về truyền thông
Lần này, chúng ta hãy nghe hai cây bút vốn được xem là “những kẻ lắm chuyện” – TS Hà Thanh Vân và nhà văn Đặng Chương Ngạn nói gì? Một người đào sâu từ góc độ truyền thông – giữa báo chí chính thống và mạng xã hội, một người lại lật tung những chi tiết cẩu thả và phi lý trong chính văn bản truyện.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 30: Khi ý tưởng bị đánh tráo
Bàn tròn Văn học kỳ 30 xin mời bạn đọc cùng đối thoại về câu chuyện này – không phải để truy cứu cá nhân, mà để suy nghĩ sâu xa hơn: văn chương sẽ đi về đâu, nếu lòng tin của người viết trẻ bị phản bội và lòng tin của công chúng bị bỏ rơi?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 29: Phản biện ẩn danh - Dũng khí hay sự né tránh?
Trong Bàn tròn kỳ này, câu chuyện nói về hiện tượng phản biện văn chương dưới những cái tên xa lạ, thậm chí là ẩn danh.
Xem thêm
Thi pháp của thơ ngắn – Trường hợp Mai Quỳnh Nam
Trong tất cả các thể loại văn học, thơ ca là nơi ưu tiên hàng đầu cho các hình thức ngắn gọn. Điều này không chỉ thể hiện ở độ dài khiêm tốn của các tập thơ mà còn nằm ở đặc trưng nội tại của thơ, vốn hướng đến sự cô đọng hơn so với các thể loại khác (như tiểu thuyết).
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 28: Minh bạch – từ chuyện nhỏ đến vấn đề lớn
Bàn tròn Văn học kỳ 28 không nhằm khơi gợi thị phi, càng không phải góp gậy góp đá “đánh hội đồng” một tổ chức nghề nghiệp mà chính “thư ký bàn tròn” này được vinh dự là hội viên.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 27: Công bằng trong xét giải - Từ quy chế đến thực tiễn
Giải thưởng văn học hằng năm của Hội Nhà văn Việt Nam đang đối diện một nghịch lý: quy chế một đằng, thực tế một nẻo.
Xem thêm