- Ngôn ngữ-Lý luận - Phê bình
- Ba tiếng nói – một sự thật nhân văn
Ba tiếng nói – một sự thật nhân văn

Bài viết của cựu chiến binh, nhà ngoại giao Dương Nguyên Tường sau khi đọc lại Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh từ trải nghiệm người lính giúp ta nhận diện một “nỗi đau hòa bình” còn dai dẳng hơn bom đạn. Bên cạnh đó là hai đánh giá quốc tế của nhà văn Diêm Liên Khoa (Trung Quốc) và GS văn chương kiêm dịch giả Gunter Giesenfeld (Đức), khẳng định tác phẩm này thuộc hàng kinh điển chiến tranh thế giới.
Cánh buồm thao thức xin trân trọng giới thiệu chùm tư liệu – chiêm nghiệm đặc biệt này.
***
NỖI BUỒN CHIẾN TRANH & NỖI ĐAU HÒA BÌNH
DƯƠNG NGUYÊN TƯỜNG
Ta đọc Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh năm 1991 sau khi cuốn tiểu thuyết này được giải thưởng văn học. Hồi đó còn đang vật lộn mưu sinh nên chẳng quan tâm mấy đến văn học nghệ thuật nhưng thấy cái tên là lạ, hay hay lại được giải thưởng nên vì tò mò mà đọc thôi.
Nhưng bập vào là đọc một hơi đến sáng luôn. Còn vài chục trang mang lên cơ quan tranh thủ lúc giao ban đọc nốt. Đọc xong gấp lại, ta nhìn quyển sách như nhìn một con quái vật, chửi thầm: mẹ, viết hay thế!
Hồi đó có rất nhiều tiểu thuyết viết về chiến tranh và lính chiến nhưng tuyệt đại đa số viết theo một hướng tuyên truyền định sẵn nên không thật về nội dung, nhạt hoét về nghệ thuật, đọc tức anh ách!
Nỗi buồn chiến tranh khác hẳn! Cứ như là Bảo Ninh, cùng tuổi ta, cũng lính chiến thứ thiệt, không chỉ viết cho hắn mà còn cho riêng ta đồng thời cho tất cả những thằng lính chiến đã chết hay đang sống khắc khoải, ngơ ngác và bàng hoàng sau những tháng năm bom đạn kinh hoàng trở về với đời thường nghiệt ngã.
Những dòng viết về đạn bom, về rừng rú, về lính tráng thật hơn cả thật. Những dòng viết về đời đời hơn cả đời. Còn những dòng viết về tình thì thôi rồi, ngất ngây và đau đớn như bất cứ mối tình thứ thiệt nào!
Tất cả tạo nên một cái nhìn khách quan, thật lòng, đau đớn nhưng nhân văn không chỉ về cuộc sống thời hậu chiến mà còn về cuộc chiến, một cuộc chiến mà Bảo Ninh, ta và rất nhiều đồng đội của ta đã vô tư, hồ hởi, tình nguyện tham gia để rồi chỉ sau vài trận đánh mới nhận ra rằng chém giết lẫn nhau chẳng có gì là vinh quang cả!
Có rất nhiều chi tiết đời thường hấp dẫn và kì quái của những thằng lính chiến không được kể nhưng cũng có rất nhiều chi tiết hư cấu một cách thái quá trong quyển sách này.
Chuyện thường tình thôi vì nếu không hư cấu đã không phải là tiểu thuyết!
Mà đó lại là một tiểu thuyết viết về thân phận con người, cụ thể hơn, thân phận một chiến binh rã rời trở về sau chiến tranh và bàng hoàng thấy cuộc sống mà vì nó mình hi sinh không đẹp như vẫn tưởng. Đã thế cuốn tiểu thuyết này lại xuất hiện vào thời điểm mà ông Đại tướng lừng danh bị điều đi làm Trưởng ban Kế hoạch hóa gia đình và những người lính vừa ra khỏi trận mạc kinh hoàng thì “đầu đường đại tá vá xe, cuối đường trung tá bán chè đỗ đen"
Có lẽ vì thế mà khi nó xuất hiện ở những năm đầu của thời kì “đổi mới” đã được đón nhận một cách đặc biệt bởi những độc giả chân chính và có khả năng cảm thụ cái đẹp đồng thời được nhận giải thưởng văn học một cách rất xứng đáng cả về nội dung và nghệ thuật.
Nhưng cũng chính vì thế mà nó bị lên án, quy chụp và thóa mạ không chỉ bởi những kẻ cuồng tín, ngu si mà bởi cả giới chức và đặc biệt là các “cơ quan chức năng”! Làn sóng lên án tác phẩm này dữ dội và khủng khiếp đến mức Ban tổ chức giải thưởng phải thu hồi giải thưởng và các thành viên, toàn những nhà văn kì cựu, vừa mới hôm qua còn ca ngợi tác phẩm này hết lời hôm nay đã phải nghiêm khắc kiểm điểm trước tổ chức và quay ra phê bình, thậm chí đánh giá Bảo Ninh chẳng ra cái quái gì. Hồi đó, ta đã nhìn mấy tay nhà văn này bằng con mắt khinh bỉ!
Riêng với ta, Nỗi buồn chiến tranh mãi mãi là một tác phẩm hay nhất viết về thân phận người lính trong và sau chiến tranh!
Sau khi đọc Nỗi buồn chiến tranh ta không đọc thêm bất cứ quyển sách văn học nào của Việt Nam đương đại nữa!
Gần đây, thấy cộng đồng mạng dậy sóng sau khi Nỗi buồn chiến tranh được vinh danh là một trong 50 tác phẩm văn học hay nhất sau 1975, lại vì tò mò, ta tìm hiểu và được biết tác phẩm này đã nổi tiếng ở tầm thế giới. Đồng thời ta nhận thấy giới chức và các “cơ quan chức năng” đã có thay đổi căn bản về tư duy và nhận thức khi đánh giá Nỗi buồn chiến tranh là một trong những tác phẩm văn học danh giá của nước nhà. Đây thật sự là tín hiệu đáng mừng!
Nhưng cũng đáng buồn thay khi còn rất nhiều người lên án, thóa mạ và sỉ nhục Nỗi buồn chiến tranh cũng như tác giả của nó y như cách đây 30 năm. Những kẻ ngu si, cuồng tín thì không nói làm gì nhưng đáng nói hơn là trong số đó có cả tướng tá quân đội, giáo sư tiến sĩ và thậm chí cả các văn nhân! Rõ ràng nhận thức của một bộ phận không nhỏ dân chúng xứ này đã bị ai đó đúc bằng một cái khuôn cũ kĩ, bảo thủ và ngu muội của 30 năm trước!
Trong bối cảnh đó ta đọc lại Nỗi buồn chiến tranh.
Có lẽ đọc trong bối cảnh khác, tâm thế khác, điều kiện khác nên chỉ đọc hết một chương ta lại phải dừng lại nghỉ vì không thể đọc tiếp.
Không thể đọc tiếp vì chương này làm ta nhớ cồn cào những cánh rừng Tây Nguyên bạt ngàn che chở ta năm nào nay tan hoang xơ xác, chương kia như làm sống lại những trận đánh thắng có, thua có nhưng trận nào cũng đầy người chết, toàn những người chung dòng máu Việt!
Không thể đọc tiếp vì chương này làm ta nhớ ngất, nhớ ngây cô em xóm đạo, 17 trăng tròn, đẹp như thiên thần, sẵn sàng dâng hiến mà ta không dám vì… sợ bị kỉ luật, chương kia dẫn ta về xã Đồng Tâm, một trong những trung tâm huấn luyện đặc công lừng lẫy một thời nhưng cũng là nơi cụ Kình, một đảng viên yêu nước thương dân đã bị ai đó găm vào ngực vài viên đạn!
Không thể đọc tiếp vì vừa đọc ta vừa nhớ lại vào tháng 10 năm 1975, cùng hàng vạn chiến binh vừa ra khỏi trận mạc, vết thương vừa lên da non, da tái xanh vì sốt rét ta đã phải nhận quyết định phục viên, về vườn! Với hai bàn tay trắng và cái ba lô lẹp xép ta lặng lẽ trở về quê nhà vừa đi cày vừa ôn thi đại học như chưa từng kinh qua một cuộc chiến kinh hoàng mà mọi người đang hoan hỉ tụng ca! Hồi đó, nếu ta không đỗ đại học chắc chắn hôm nay ta cũng giống như thằng Bẩm, thằng bạn cùng tiểu đội, đồng đội cuối cùng của ta còn sống, phải thế chấp cái nhà xập xệ lấy vài trăm triệu để xạ trị chữa bệnh ung thư, di chứng của chất độc da cam…
Không thể đọc tiếp vì hiện lên khắc khoải trong ta những lớp học tồi tàn, rách nát ở vùng cao đói nghèo Tây Bắc hay trong miền nắng gió khắc nghiệt Tây Nguyên bên cạnh những biệt phủ lộng lẫy của bọn tham quan trên mọi miền Tổ quốc!
Không thể đọc tiếp vì dấy lên trong lòng ta sự khinh bỉ đối với những kẻ mới hôm nào còn chửi bới Bảo Ninh và Nỗi buồn chiến tranh sa sả mà hôm nay đã uốn lưỡi tâng bốc cũng con người ấy, tác phẩm ấy lên tận mây xanh!
Không thể đọc tiếp vì qua từng trang sách ta cay đắng nhận ra cuộc sống hôm nay, mặc dù đã thay đổi nhiều lắm, nhưng về bản chất thì chẳng khác gì hơn 30 năm trước, nếu không muốn nói là tệ hơn!
Và trên hết, không thể đọc tiếp vì nhớ những thằng đồng đội. Nhớ từng khuôn mặt, ánh mắt, thậm chí cả cái nốt ruồi của những thằng tử tế cũng như của những thằng khốn nạn; của những thằng chết trận cũng như những thằng chết vì bệnh tật, thương tích sau chiến tranh; của những thằng vô cùng giầu có vì tham nhũng sau khi rời chốn quan trường cũng như của những thằng đang chết dần chết mòn trong nghèo khổ… giữa thời bình!
Thời của một nền hòa bình mà những thằng lính chiến như ta và đồng đội đã vì nó mà hy sinh tuổi trẻ, hi sinh ước mơ, hy sinh tình yêu để hôm nay cay đắng nhận thấy nó không hề đẹp đẽ và không đáng vì nó mà hy sinh như mình đã từng!
Trong tâm thức ấy, ta đã đọc lại Nỗi buồn chiến tranh và đau đớn nhận thấy nỗi buồn đó hôm nay càng buồn hơn khi nó song hành cùng nỗi đau hòa bình!
Hà Nội, 09-12-2025
Nhà văn Diêm Liên Khoa (Trung Quốc):
“Tôi với tư cách một tiểu thuyết gia đã có đến 26 năm trong quân đội, đọc xong tiểu thuyết này, cảm giác mãnh liệt nhất, đó chính là giả sử ngay từ cuối những năm 80 hoặc muộn hơn một chút vào đầu những năm 90, chúng ta có thể dịch Nỗi buồn chiến tranh sang tiếng Trung giống như "Vòng hoa dưới núi" của nhà văn Trung Quốc Lý Tôn Bảo vừa xuất bản hồi đầu những năm 80 đã gần như đồng thời được dịch sang tiếng Việt, thì nhận thức của chúng ta đối với văn học Việt Nam sẽ không đến nỗi phong bế và hạn hẹp như hôm nay; văn học quân đội Trung Quốc cực kỳ cũ kỹ và trì trệ hôm nay cũng nhất định sẽ không bảo thủ, bó chân và tụt hậu như vậy... Nghiền ngẫm Nỗi buồn chiến tranh với tư cách là một tiểu thuyết chiến tranh phương Đông trong bối cảnh văn học thế giới và so sánh nó với dòng văn học chiến tranh mà chúng ta có thể đọc được của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, rõ ràng Nỗi buồn chiến tranh đánh dấu tầm cao mới của một thứ văn học mới. Một tác phẩm cực hiếm của một nhà văn châu Á phương Đông, hiếm có trong những miêu tả, nhận thức, phê phán thẩm mĩ đối với chiến tranh, hiếm có trong những lý giải và tình yêu đối với con người, những suy tư về nhân tính, hiếm có cả trong biểu đạt nghệ thuật - một phương diện cá tính nhất, quan trọng nhất đối với một nhà văn”.
Giáo sư văn chương, kiêm dịch giả Đức Gunter Giesenfeld, người từng dịch tác phẩm của Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Thiệp, Thùy Trâm sang tiếng Đức (qua bản dịch tiếng Anh và tiếng Pháp) cũng đã dịch Nỗi buồn chiến tranh sang tiếng Đức, cuốn Die Leiden des Krieges. Die Leiden des Krieges sau đợt phát hành ở Đức tháng 6/2014 đã đứng đầu bảng xếp hạng 7 cuốn sách hư cấu xuất sắc quý I/2015 của Litprom, Hiệp hội văn hóa châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh tại Đức. Gunter Giesenfeld so sánh Nỗi buồn chiến tranh với "Phía tây không có gì lạ" và đánh giá, Nỗi buồn chiến tranh thậm chí còn hay hơn "Phía tây không có gì lạ".
Ông kết luận: “Tiểu thuyết của Bảo Ninh thuộc hàng kinh điển thế giới ở dòng văn chiến tranh”.