TIN TỨC
icon bar

Nhà thơ Trương Nam Hương, nghe mùa trở gió hoang mang...

Người đăng: nguyenhung
Ngày đăng: 2023-04-18 18:19:21
mail facebook google pos stwis
1705 lượt xem

NGÔ ĐỨC HÀNH

Trương Nam Hương là nhà thơ nổi danh từ lúc còn trẻ. “Mẹ cho anh tuổi Mèo Tam thể”, (thơ Trương Nam Hương), nghĩa là ông sinh năm 1963, vừa tròn “Lục thập hoa giáp”. Tuổi càng "chín", thơ ông càng trong trẻo, thánh thiện...

Những tập thơ tiêu biểu của ông là: Khúc hát người xa xứ, NXB Trẻ - 1990, Cỏ, tuổi hai mươi, NXB Văn nghệ - 1992, Ban mai xanh, NXB Đồng Nai, 1994, Ngoảnh lại tháng năm, NXB Văn học - 1995, Viết tặng những mùa xưa, NXB Thanh Niên -1999, Ra ngoài ngàn năm, NXB Văn Học - 2008, Thời nắng xanh & những bài thơ khác, NXB Hội Nhà văn -2022. Ở thời điểm kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam, anh là hội viên trẻ tuổi nhất sở hữu giải thưởng thơ danh giá.

Trương Nam Hương đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá trong văn chương. Ở tuổi 28 ông vinh dự nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam. Thành tựu văn chương này là hạnh phúc lớn lao không dễ có được, nhất là khi tuổi đời, tuổi văn chương của ông còn trẻ. Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam dành cho một tác giả, chắc chắn người đó phải có tài. Ông từng đạt danh hiệu “Nhà thơ được yêu thích nhất” do Báo Người Lao động bình chọn, vừa lúc ông 29 tuổi.


Nhà thơ Trương Nam Hương

Thơ Trương Nam Hương đa tầng, đa âm, đa sắc. Mẹ mất sớm. Mười hai tuổi Trương Nam Hương theo gia đình vào Sài Gòn. Ám ảnh mồ côi, ám ảnh tha hương cứ đi suốt theo anh, đặc biệt mạnh mẽ và da diết trong những năm tháng tuổi đôi mươi. Chẳng phải tự nhiên, trong thơ ông có một “tôn giáo mẹ” trong tâm hồn nhà thơ Trương Nam Hương.

Danh từ “mẹ” xuất hiện trong rất nhiều bài thơ của ông, từ “Gió khuya”, “Băn khoăn”, “Chùa Vĩnh Nghiêm”, “Tuổi thơ”, “Dặn lòng”, “Ngỏ với trúc xinh”. Không có gì thiêng liêng bằng tình mẫu tử. Ngoài thân phụ, nhiều bài thơ, câu thơ về bà, về cha, về mẹ, về chị, về em rưng rức xúc động. “Tôi bước ra sân mắt trăng giàn dụa / Cây thị lắc như bóng đồng nhảy múa / Tôi gọi bà. Bà mất đã nhiều năm...”, (Cổ tích của bà). Cảm thức “máu chảy ruột mềm”, đạo lý “Công cha như nước Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, (Ca dao), chảy trên những câu thơ, dâng lên thành những tứ thơ xúc cảm. Bản thân thi ca là hướng nội. Nhà thơ vịn vào cô đơn tìm ra bản thể.

Bóng cha, dáng mẹ, tuổi thơ, quê hương...trong thơ Trương Nam Hương lồng lộng, xoắn xuýt, vừa giản dị, vừa sang trọng cho người đọc những cảm xúc đặc biệt. “Tết này nhà lại vắng cha / Thuốc không thơm nữa ấm trà bớt ngon / Cha đi về phía vuông tròn / Trần gian lấm láp mãi còn nắng mưa”, (Dâng cha)

Thiên chức làm cha định vị họ phải vững chãi và mạnh mẽ như núi; có thế mới nuôi dưỡng, chăm chút, yêu thương và dõi theo từng bước trưởng thành của con. Con mình luôn mãi non xanh, vụng dại và bé bỏng trong mắt họ.

Vì thế, khi người cha mất đi, Trương Nam Hương đã trải qua giây phút thẫn thờ, khi “ngọn núi” chở che, “bầu trời bao la” của mình không còn. “Con không tin có thiên đường / Nhưng tin có thật nỗi buồn, cha ơi!”, (Dâng cha). “Trong cha có một câu hò/ Trong câu hò có con đò sông Hương/ Trong sông Hương có nỗi buồn/ Trong thăm thẳm có vô thường thi ca...” (Lời thưa). Đây là những câu thơ của một thi sỹ tài hoa.

Dĩ nhiên, khi tiếng nói của bản thể trở thành tiếng lòng chung, người đọc thấy mình có ít nhiều trong văn bản. Tình cảm cá nhân, qua những bài thơ về cha, mẹ, bà....được người đọc rọi chiếu, nhận ra mình có trong trường cảm xúc của nhà thơ. Đó mới là sự thành công của thơ. “Hạt gạo ít, hoa gạo nhiều đến thế / Bao gió bấc mưa phùn không đếm xuể / Chỗ bà ngồi giông bão cũng vây quanh”, (Cổ tích của bà). Ai cũng có nội, ngoại, cha mẹ; đọc riêng khổ thơ này, ai không nhớ bà nội/ ngoại của mình? Bài thơ còn vẽ lên hoài niệm về bà, bức tranh về làng quê, xốn xang một thuở.

Mỗi đêm ngủ ta mơ thức dậy / Khẽ quờ tay chạm cát sông Hồng / Ai mới thả cánh bèo qua đấy / Có chở dùm Quan họ theo không?”, (Hồi tưởng). “Anh cứ tưởng tháng năm hào phóng lắm / Thơ dại ngày anh lộc vừng lấm tấm / Ngây dại ngày em xao xít dây bìm”, (Tạp cảm).


"Thời nắng xanh & Những bài thơ khác", tập thơ mới nhất của nhà thơ Trương Nam Hương

Cứ thế, Trương Nam Hương hồi tưởng, tạp cảm về “Miền em”, về “Rơm rạ một thời tôi”, về “Cổ tích của bà”; về mẹ, về cha... “Nhặt tuổi mình” nơi “Góc cỏ”, nơi “Khói bếp xưa”. Phải nói rằng, bản đồ tâm hồn Trương Nam Hương rậm rịt cỏ may, dây chạc chìu...của thời “Hoa vàng một thuở”. Trương Nam Hương là người nặng nghĩa, nặng tình. Tập thơ xác tín ông là người hoài niệm, đa mang, đa sầu, đa cảm.

“... / Con lam lũ của một thời / Để khi khôn lớn nên người lại xa / Mỗi lần nhìn khói ngang qua / Tự dưng mắt nhớ quê nhà lại cay”, (Khói bếp xưa). Dường như Trương Nam Hương sở hữu một kho báu nỗi buồn, nỗi buồn khách thể, ngay cả “Tiếng thở của mùa” nhập vào ông thành nỗi buồn chủ thể. Cứ thế dâng đầy lên. “Nghe mùa trở gió hoang mang / Nắng mưa cũng nhạt thời gian cũng nhòa / Tình người xa lắm là xa / Chiều nay mùa thở đầy ta nỗi buồn”, (Tiếng thở của mùa).

Mùa xanh”, “Gọi nhau mấy thuở”, “Bâng quơ”, “Cổ tích của bà”, “Góc cỏ”, “Bâng quơ”, “Hoa bất tử”... là những bài thơ sáng tạo thi pháp. Mỗi khổ thơ chỉ có 3 câu, tứ chặt. Trương Nam Hương còn làm mới “thành trì” truyền thống của lục bát, làm mới đồng dao thành những bài thơ, khổ 3 câu, nhịp 8 chữ uyển chuyển, man mác. “Đi qua năm tháng gập ghềnh dại khôn / Niềm vui bong bóng hào quang chập chờn / Chiếc gai chìm khuất nhói vào cô đơn”, (Ghi vội trên đường). Trong nhiều trường hợp, đồng dao truyền thống và đồng dao cách tân có mặt trong một bài, biến hóa, tạo ra nhịp điệu thơ mới lạ. Tức là Trương Nam Hương luôn biết làm mới, những điều tưởng cũ.

Tôi cứ phân vân, để ý, những bài thơ Trương Nam Hương viết về dòng sông, như “Trước sông”, “Lỗi hẹn sông Cầu”, “Sông Tiền ngày xa em”, “Gửi hai dòng sông quê”, “Nhớ sông Mẹ”, “Với sông Hồng”. “.../ Chỉ sông Hồng thương mẹ hát đơn côi / Phù sa đỏ như miếng trầu mẹ quệt / Ăn hạt gạo mãi giờ con mới biết /Có sông và đời mẹ ở bên trong”, (Với sông Hồng). Đấy là mới liệt kê trong tập thơ mới nhất Thời nắng xanh & những bài thơ khác của ông.


“Tạ ơn Hà Nội trọn đời / Nuôi tôi thương khó. Tôi thời trong veo...” (Hà Nội một thời, thơ Trương Nam Hương

Trương Nam Hương gốc Huế, cha tập kết ra Bắc, mẹ là con gái Bắc Ninh. Anh sinh ra ở Hải Phòng, gắn bó tuổi thơ ở Hà Nội. Trải nghiệm ấy giúp anh có được nhiều bài thơ, nhiều câu thơ thật hay viết về những miền đất ấy, đặc biệt là Hà Nội. “Tạ ơn Hà Nội trọn đời / Nuôi tôi thương khó. Tôi thời trong veo...” (Hà Nội một thời).

Mười hai tập thơ của nhà thơ Trương Nam Hương, chưa tập nào thiếu vắng Hà Nội, thiếu vắng những khắc khoải về Hà Nội. Chưa Tết năm nào nhà ông thiếu cành đào Nhật Tân, bên cạnh chậu mai vàng Sa Đéc. Chừng ấy đã đủ đầy.

Tết về, Trương Nam Hương càng nhớ đất Bắc, nhớ tuổi thơ và những lần theo mẹ lên Chùa hái lộc đầu Xuân. “ Mùa Xuân theo mẹ lên Chùa/ Oản xôi hóng nhận, chuỗi bùa hóng đeo/ Mẹ quì tôi nép quì theo/ Lạy từ ngọn cỏ lạy veo…tới trời!”. Xa Hà Nội gần 50 năm, ông vẫn giữ giọng Bắc, thích ăn cơm Bắc, và vẫn uống cà phê theo phong cách Hà Nội giữa Sài Gòn. Những ngày giáp Tết là lúc lòng anh nhớ đất Bắc vô cùng “Sớm nay Sài Gòn thật lạ/ Mưa Xuân đất Bắc vương vào/ Anh mời heo may ghé quán/ Gọi cà phê nhớ xôn xao" ( Lời mời tháng giêng). Hà Nội trong anh đã thuộc về tâm thức. Hà Nội trong ông là linh hồn. Trương Nam Hương luôn thấy lòng ngơ ngác. Ấy là lúc ông nhớ nhảy tàu điện ra Bờ Hồ xem bán mứt Tết, xem người lớn mua đào, mua quất, cả bánh chưng xanh, câu đối đỏ. Tiếng pháo tép rộn ràng trong góc khuất trái tim.

Thường người ta nhớ khổ đau, nhớ thời đói khát. Trương Nam Hương là thi sỹ, càng thế. “Tết nghèo bánh lá thay cơm / Đồng xu mừng tuổi còn thơm mùi bùn / Con cầm thương khó run run / Muốn khoe với cả mưa phùn mẹ ơi!”, (Nhớ Tết).

Là người “cầm tinh con mèo”, mỗi năm Mão đến, Trương Nam Hương dày lên hoang hoải. Nhà thơ nào cũng có nỗi buồn “đặc hữu”, Trương Nam Hương không ngoại lệ. “Hoa như môi người hớn hở / Cánh tươi xòe nở nghiêng chào/ Lá mướt mở lòng đon đả / Đón làn hương ngát dâng trao”, (Bình hoa Tết). “Càng nhớ mẹ những ngày giáp Tết / Khói mùa xưa đọng mắt cay sè / Con ra phố môt mình đón rét / Kiếm môt niềm an ủi xa quê...”, (Nhớ mẹ chiều cuối năm). Nhớ một ngày Xuân, Trương Nam Hương về thăm quê mẹ, lắng mình trong những câu hát Quan họ liền chị liền anh với một niềm tiếc nuối bâng khuâng. “Bây giờ Quan họ bồng con/ Trúc xinh trúc đứng mỏi mòn đợi mong/ Ngày em bỏ hội theo chồng/ Mùa Xuân Quán dốc rối bòng rễ si” (Mùa Xuân Quan họ).

Trương Nam Hương là nhà thơ có tài. Ông không cầu kỳ, rối rắm về thi pháp, không tìm cách làm “xiếc chữ” như xu hướng thời thượng của nhiều thơ trẻ. Thơ Trương Nam Hương là minh chứng của “quy luật muôn đời”, phải đơn giản hóa mọi phức tạp, đi từ mình đến người, từ tự do đến tất yếu. Chính sự giản dị, giàu cảm xúc, rưng rức nỗi người, mới làm tròn sứ mệnh cứu rỗi của thi ca.

Với thơ, chỉ có hay hoặc chưa hay, "mới" hay cũ chưa nói lên điều gì. Điều quan trọng nhất là thơ của ai đó, có tạo nên những rung chấn trong tâm hồn bạn đọc hay không? Đó mới là thiên chức muôn đời của thơ. Và nữa, đọc thơ Trương Nam Hương, có lẽ ta giật mình điều tưởng cũ: Ở đâu nghèo nàn về nội dung, thường hay quan tâm đến hình thức, điệu đà chữ nghĩa.

Nguồn: https://vlr.vn

Bình luận

Để lại comment

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bàn tròn kỳ 34: Hư cấu nghệ thuật trong phim “Mưa đỏ”
Một tác phẩm nghệ thuật thành công không nằm ở việc tái hiện chính xác từng chi tiết, mà ở chỗ khơi dậy tình yêu nước và lòng biết ơn cha anh, để lịch sử tiếp tục sống động trong tâm thức nhiều thế hệ.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 33: Khi “cái kết nhân văn” đi nhanh hơn tâm lý nhân vật
Truyện muốn nhấn mạnh tình máu mủ nhưng lại quên rằng tình phụ tử cũng cần thời gian và sự bồi đắp. Khi sự hòa giải diễn ra quá nhanh, cái nhân văn mà tác giả mong muốn dễ trở thành “nhân văn nóng vội”, chưa kịp đi qua những ngập ngừng, day dứt – vốn là hơi thở của đời thường.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 32: Nguyễn Duy và tiếng chuông gọi tên mười loại phê bình
Bài văn tế đặc biệt của nhà thơ Nguyễn Duy – một lời cảnh tỉnh, một tiếng chuông thức tỉnh từ một thi sĩ từng trải
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 31: Trăm Ngàn – từ cẩu thả chữ nghĩa đến vụng về truyền thông
Lần này, chúng ta hãy nghe hai cây bút vốn được xem là “những kẻ lắm chuyện” – TS Hà Thanh Vân và nhà văn Đặng Chương Ngạn nói gì? Một người đào sâu từ góc độ truyền thông – giữa báo chí chính thống và mạng xã hội, một người lại lật tung những chi tiết cẩu thả và phi lý trong chính văn bản truyện.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 30: Khi ý tưởng bị đánh tráo
Bàn tròn Văn học kỳ 30 xin mời bạn đọc cùng đối thoại về câu chuyện này – không phải để truy cứu cá nhân, mà để suy nghĩ sâu xa hơn: văn chương sẽ đi về đâu, nếu lòng tin của người viết trẻ bị phản bội và lòng tin của công chúng bị bỏ rơi?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 29: Phản biện ẩn danh - Dũng khí hay sự né tránh?
Trong Bàn tròn kỳ này, câu chuyện nói về hiện tượng phản biện văn chương dưới những cái tên xa lạ, thậm chí là ẩn danh.
Xem thêm
Thi pháp của thơ ngắn – Trường hợp Mai Quỳnh Nam
Trong tất cả các thể loại văn học, thơ ca là nơi ưu tiên hàng đầu cho các hình thức ngắn gọn. Điều này không chỉ thể hiện ở độ dài khiêm tốn của các tập thơ mà còn nằm ở đặc trưng nội tại của thơ, vốn hướng đến sự cô đọng hơn so với các thể loại khác (như tiểu thuyết).
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 28: Minh bạch – từ chuyện nhỏ đến vấn đề lớn
Bàn tròn Văn học kỳ 28 không nhằm khơi gợi thị phi, càng không phải góp gậy góp đá “đánh hội đồng” một tổ chức nghề nghiệp mà chính “thư ký bàn tròn” này được vinh dự là hội viên.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 27: Công bằng trong xét giải - Từ quy chế đến thực tiễn
Giải thưởng văn học hằng năm của Hội Nhà văn Việt Nam đang đối diện một nghịch lý: quy chế một đằng, thực tế một nẻo.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” - Hành trình từ chiến trường đến nhân sinh
Lời ru bão giông của Trần Hóa không chỉ là một tập thơ, mà là bản hòa tấu của ký ức, trải nghiệm và những suy ngẫm về đời sống.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 26: Khi công bằng bị bỏ quên, im lặng trở thành câu trả lời
Bàn tròn Văn học kỳ này xin giới thiệu nội dung tóm lược của hai bức thư ngỏ – coi đó như một lời chất vấn trực diện, một thử thách đối với tính minh bạch và liêm chính của một cuộc thi văn chương quốc gia.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 25: Minh bạch là điều kiện sống còn của uy tín văn chương
Bàn tròn kỳ 25 chọn hai bài viết mới nhất của nhà văn Đặng Chương Ngạn về “thầy Uông” – thành viên Hội đồng Sơ khảo – như chất liệu để trao đổi thẳng thắn.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 24: Trăm Ngàn câu hỏi, một chữ Minh bạch
Xin mời bạn đọc cùng ngồi lại, để lắng nghe, để bàn luận, và biết đâu, để cùng trả lời câu hỏi day dứt: Liệu văn chương Việt có thể đứng thẳng bằng phẩm giá của nó, hay sẽ mãi lẫn lộn trong những “trăm ngàn” trò chơi lợi ích?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 23: Giải thưởng, danh hiệu và chuẩn mực văn chương hôm nay
Nếu ở các kỳ trước, chúng ta chủ yếu xoay quanh truyện ngắn Trăm Ngàn, thì lần này, hai ý kiến góp mặt mở rộng vấn đề sang một góc nhìn gai góc hơn: chuyện “lợi ích nhóm” trong đời sống văn học – nghệ thuật.
Xem thêm
Những câu thơ thức “canh chừng lãng quên”
Với cảm hứng từ hai tứ thơ độc đáo – Cõng bạn đi chơi của Vương Cường và Dìu mẹ đi thăm mộ mình của Hồ Minh Tâm – bài viết của Bùi Sỹ Hoa (đăng trên Tạp chí Sông Lam, số 7/2025) đưa người đọc bước vào thế giới thơ về đề tài thương binh – liệt sĩ bằng một góc nhìn mới mẻ, giàu sức ám ảnh.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Đức Hạnh, nỗi niềm thành mây trắng
Cánh buồm thao thức trân trọng giới thiệu bài viết của TS, nhà thơ, nhà phê bình Lê Thành Nghị - một bài viết công phu, giúp người đọc soi chiếu tập thơ Khát cháy từ nhiều chiều, để người đọc khám phá một “hiện thực khác” giàu thi vị.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 22: “Một truyện ngắn dở như thế thì cãi nhau làm cái gì?”
Với góc nhìn của một người giàu trải nghiệm nghệ thuật, đạo diễn Lê Hoàng đã viết một status “thẳng ruột ngựa” về Trăm Ngàn: không quanh co, không xoa dịu, không hề sợ đụng chạm.
Xem thêm
Hà Thanh Vân: “Tôi đã định không nói gì thêm…” – Nhưng ai cho tôi yên đâu!
“Tôi đã định không nói gì thêm…” – nhưng rồi, như một tật xấu khó bỏ, TS Hà Thanh Vân lại tiếp tục viết.
Xem thêm