TIN TỨC
icon bar

Hành trình thơ, hành trình “tự ý thức” làm người

Người đăng: nguyenhung
Ngày đăng: 2025-05-31 17:43:10
mail facebook google pos stwis
451 lượt xem

Cánh buồm thao thức: Với mỗi người cầm bút, thơ ca không chỉ là những vần điệu mà còn là tấm gương phản chiếu hành trình chiêm nghiệm cuộc đời và "ý thức làm người" không ngừng nghỉ. Nhà thơ Nguyễn Văn Hùng, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện sinh sống ở Vinh, là một trong những cái tên đã kiên định với hành trình ấy. Trong bài viết sâu sắc "Hành trình thơ - Hành trình từ ý thức làm người", PGS-TS. Đinh Trí Dũng sẽ dẫn dắt quý độc giả khám phá sự vận động của tư tưởng, cảm xúc và cái tôi trữ tình độc đáo trong các sáng tác của Nguyễn Văn Hùng. Từ những ngày đầu tiên đến khi thơ anh đạt đến độ "tự thức" giữa dòng đời đầy tạp âm, bài viết sẽ mở ra một góc nhìn đa chiều về một hồn thơ đầy trăn trở và luôn hướng tới những giá trị chân-thiện-mỹ. Mời quý vị cùng đọc để hiểu thêm về một hành trình thơ đầy ý nghĩa này.

PGS-TS. ĐINH TRÍ DŨNG

Tôi thích thơ Nguyễn Văn Hùng từ những ngày còn ngồi trên giảng đường đại học. Những tập thơ của anh tôi đều được tặng. Vừa rồi anh mới ra tập “Thơ chọn, 1975 – 2020”, NXB. Nghệ An, 2021; sách của UBND tỉnh đặt hàng, in 2000 cuốn, là số lượng lớn với một tác phẩm thơ. Người ta bảo khi ra tuyển tập hay thơ chọn là nhà thơ đã bắt đầu tổng kết đời thơ của mình. Với Nguyễn Văn Hùng, tôi hy vọng hành trình ấy vẫn còn tiếp diễn vì với anh, Nàng Thơ vẫn còn nhiều duyên nợ!


Nhà thơ Nguyễn Văn Hùng  (Nghệ An)

Đã có nhiều bài viết về thơ Nguyễn Văn Hùng trong đó có ba bài rất tri âm của nhà thơ Phạm Đình Ân, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, nhà báo Anh Thư (anh cũng đã đưa ba bài viết này vào trong tập sách Thơ chọn). Từ những góc nhìn khác nhau, họ đã chỉ ra rất chính xác đặc điểm thơ Hùng. “Thơ Nguyễn Văn Hùng thường nêu sự việc nho nhỏ, đời thường nhưng mang ý nghĩa lớn, sâu sắc, bằng lối viết giản dị, súc tích, với xúc cảm trầm lắng, trong trẻo, tinh tế”; “Trước tiên, đây là những cảm thức về văn hóa tinh thần. Cảm thức này tập trung ở khá nhiều bài thơ đề cập đến nội dung về văn hóa, nghệ thuật, thi ca” (Phạm Đình Ân). “Thơ cho anh sống cuộc đời nhiều yêu thương, day dứt”; “Thơ cho anh được sống cùng thơ. Nguyễn Văn Hùng thương thơ, xót mình, nhưng anh không thể sống thiếu thơ” (Phạm Xuân Nguyên). “Hay nghĩ ngợi, dễ tổn thương và hay giấu nỗi buồn sâu trong lòng. Một tính cách “khẽ khàng” nhưng không nhu nhược, “chớ nguôi im”; “lặng lẽ” là điều tưởng dễ mà khó trong bối cảnh đời sống thơ ca hôm nay. Nhưng nó thống nhất với tính cách và quan niệm sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Văn Hùng, lấy thơ ca để chở tình, để răn mình” (Anh Thư). Tôi cũng khó nói được gì sâu hơn với những điều khái quát chính xác ấy. Tôi phải tìm một con đường khác để thâm nhập sâu hơn thơ Nguyễn Văn Hùng, đó là đi tìm hành trình vận động của tư tưởng, của cảm xúc, của cái tôi trữ tình trong thơ anh.

1. Từ một nhà giáo yêu thơ…

Nguyễn Văn Hùng bắt đầu làm thơ khi anh còn là sinh viên trường Đại học Sư phạm Vinh. Thơ anh đã được lưu truyền trong nhiều cuốn sổ tay sinh viên, được in vào nhiều cuốn nội san, kỷ yếu của nhà trường. Anh viết về thầy cô, bạn bè, nhà trường, về tình yêu, với cảm xúc trong trẻo, sâu lắng:

“Một phòng con và những chiếc giường tầng/ Đó, tất cả gia tài của người ra đi gửi lại/ Ơi các chị, các anh những thầy cô giáo mới/ Ở phương xa có nghe động giữa lòng mình”.- (Bài Căn phòng gửi lại)

“Thầy giáo ngược xuôi mượn bộ đồ văn công/ Quần thì rộng áo dài quá cỡ/ Và ai đó còn mơ mộng nữa/ Đánh rơi chiếc quạt che duyên lúc lưỡng lự qua cầu”.- (Bài Từ những điều máy ghi âm không thể ghi).

Ngoài những cảm xúc về bạn bè, nhà trường, thơ Nguyễn Văn Hùng giai đoạn này cũng bắt đầu mở rộng đề tài, vui buồn với cuộc sống xung quanh. Đó là cảm xúc về những chuyến xe “băng ra tuyến lửa”, về “đo đường ở ngã tư”, về “phố mới đêm đầu/ không ngủ được”, về “người sàng sỏi trên con đường tôi qua”. Các bài thơ bên cạnh niềm vui, niềm phấn khởi đã bắt đầu hé lộ những dự cảm buồn, trống vắng mà sau này sẽ thành một phần không thể thiếu trong thơ anh:

“Năm tháng ấy tôi có nhiều ước vọng/ Nhiều nỗi niềm biết gửi vào đâu/ Phố gác, người đông, áo xe đủ mốt/ Vầng trăng lên đơn độc trên đầu”.- (Bài Hoa Dẻ)

Sau này, trở thành giảng viên đại học ở ngay chính ngôi trường Đại học sư phạm Vinh, Nguyễn Văn Hùng tiếp tục làm thơ, gắn bó với thơ. Thơ anh lúc này gia tăng chất triết lý, nỗi buồn không còn là những giây phút bất chợt mà đã thành cảm xúc sâu lắng, gắn với suy tư về cõi đời, cõi người (Đêm qua mưa đá ngoài đồng, Hái giữa mùa cam, Một tấc lòng, Lọ lem của Epstusenko…). Bài “Một tấc lòng” anh viết tặng thầy giáo Nguyễn Sỹ Cẩn là bài thơ hay, ở đó hòa trộn nỗi niềm xưa với nay, lịch sử với hiện tại, vừa xót xa về nghịch lý cuộc đời, vừa nhìn thấu lẽ công bằng của thời gian. Cũng ở chặng này, thơ Nguyễn Văn Hùng mở thêm một mạch thơ khác, viết về người thân, về gia đình, cũng với những tâm tư trĩu nặng về lẽ mất còn (Đôi dòng tiễn đưa ông nội, Tìm, Người về…). Chặng đường nhà giáo – nhà thơ này kéo dài đến năm 1993 thì anh bị Nàng Thơ mê hoặc, bỏ giảng đường đại học, chuyển hắn sang viết văn, làm báo ở nhiều cơ quan báo chí: Tạp chí Hồng Lĩnh (Hội Văn nghệ Hà Tĩnh), Tạp chí Văn hóa Nghệ An, Tạp chí Sông Lam (Hội Văn nghệ Nghệ An), Báo Nghệ An, cho đến lúc nghỉ hưu, năm 2015.


Từ phải qua: Nhà lý luận phê bình Đinh Trí Dũng và hai nhà thơ Nguyễn Văn Hùng, Phan Hoàng ở Vinh sáng 6.5.2025.

2. Đến một nhà thơ “tự thức” giữa tạp âm bặm bụi cõi người

2.1. “Thơ cho mình trước hết thật mình hơn”.

Cho đến nay, nhiều đồng nghiệp của Nguyễn Văn Hùng ở khoa Ngữ văn Trường Đại học Vinh vẫn không hiểu vì lý do gì anh lại đột ngột từ bỏ một vị trí công tác ổn định, có thu nhập khá cao, lại đang được coi là danh giá để dấn thân vào cuộc phiêu lưu cùng nàng thơ. Không biết hôm nay, trong tâm thế “ngoái đầu nhìn lại”, anh có trách gì nàng thơ của mình? Tôi biết thơ không cho anh sự giàu có, không cho anh cả sự yên ổn trong nhiều năm trời, nhưng thơ cũng đem lại cho anh nhiều niềm vui, sự an ủi giữa cuộc đời còn nhiều ngổn ngang, phàm tục. Từ bỏ giảng đường đại học, theo nghiệp báo chí, văn chương, chắc chắn chân trời mở rộng hơn với anh, với thơ anh. Thơ anh ở chặng này (khoảng những năm 1990 trở về sau) đa dạng hơn trong đề tài, cảm xúc, đa thanh hơn trong giọng điệu. Đặc biệt, mạch thơ “tự thú” (tên một tập thơ của Nguyễn Văn Hùng) thể hiện sâu sắc những suy tư hướng nội, như tiếng nói trầm tư đối thoại với nội tâm. Những va đập cuộc đời vẫn còn đó, nhưng dường như anh muốn dành cho mình “những khoảng lặng”, “ngồi một mình”, có “một góc nhỏ để ngồi buồn”… Tên những tập thơ của anh cũng thật khiêm nhường: Tự thú (1989), Quà mọn (1994), Khẽ nhắc (2005). Bài thơ “Những câu thơ trong đêm bố viết” có thể xem là một “tuyên ngôn” thơ của anh (nói “tuyên ngôn” có vẻ to tát chứ thực ra nó là ý hướng nghệ thuật, là tâm niệm sáng tác mà bất cứ nhà thơ nào đều ít nhiều phải xác định khi đối diện với những trang thơ của mình). Bằng giọng tâm sự thủ thỉ cùng con, thực ra anh đang tự nói với mình. Anh không cao giọng lên gân về sứ mệnh, vai trò của thơ như một ai đó. Anh ý thức sự vô tâm, sự hờ hững của người đời đối với thơ hôm nay: “Một ai đó trao tiền, chợt tiếc/ Trên trang bìa thoáng gặp chữ thơ”. Buồn, ngậm ngùi, nhưng cũng là một sự lựa chọn tự nguyện, không thể khác:

“Con thấy lạ, cả nhà thấy lạ/ Trước câu thơ nhỏ, dáng hao gầy/ Bố dám đổi cả tim mòn lực kiệt/ Lấy cái điều nhẹ hẫng trên tay”.

(Bài Những câu thơ trong đêm bố viết)

Không phải ngẫu nhiên, Nguyễn Văn Hùng viết khá nhiều bài về nhà văn, nhà thơ, về nghiệp viết, về số phận của thơ ca (Những câu thơ trong đêm bố viết, Đọc thơ, Rao thơ, Bạn ơi thơ tặng bây giờ, Gửi một bạn thơ xứ Thanh, Thơ viết cuối năm…). Những câu thơ nặng trĩu suy tư về sự mất giá của thơ ca, sự buồn tủi, nhỏ bé của nhà thơ: “Tôi ký tặng tập thơ cả đời mình mắc nợ/ Người đặt cạnh ghế ngồi, rồi đứng dậy tay không” (Sách); âu cũng chính là thổn thức về sự hờ hững của con người trước cái đẹp, sự xuống cấp của văn hóa tinh thần.

Xác định tâm thế “viết cho mình”, thơ Nguyễn Văn Hùng thường chọn giọng tâm sự, nhỏ nhẹ mà sâu lắng. Trong thơ anh có rất nhiều từ thể hiện sự im lặng, sự cô đơn của chủ thể trữ tình: “Những khoảng lặng”, “lặng lẽ”, “lặng im”, “một mình”, “thao thức”, “trắng tóc đêm”… “Đứng đơn côi trước vườn cũ nhà mình” (Nhân xem phim Mùa ổi), “Lấp đầy khoảng lặng giữa chừng câu chuyện” (Những khoảng lặng), “Chuyện dọc đường ngày thành trắng tóc đêm” (Dọc đường); “Yêu lặng lẽ vầng trăng trong thơ cổ” (Phỏng vấn)… Dường như cô đơn là nghiệp của nhà thơ xưa nay, từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Cao Bá Quát đến Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính… Nguyễn Văn Hùng nối dài thêm cái mạch cô đơn ấy, cái cô đơn của thời hiện đại, của một con người biết “tự thức”, giữa “ồn ào phố xá”, “giữa tạp âm bụi bặm cõi người”.

2.2. “Thơ cho mình” nhưng cũng là “khẽ nhắc” cho người.

Mạnh Tử – nhà tư tưởng nổi tiếng Trung Hoa, có nói rằng: “Làm cho ý mình thành thật, là mình không tự dối mình, dối người”. Nhà phê bình Hoài Thanh trong cuốn Thi nhân Việt Nam có cho biết phương châm để ông chọn thơ, mở cánh cửa tâm hồn là “lấy hồn ta để hiểu hồn người”. Thành thật với mình thì mới đến được trái tim người, đó là con đường đi đích thực của thơ. Thơ Nguyễn Văn Hùng viết trước hết để tự vấn, tự nhắc, nhưng những vần thơ ấy lại làm nhiều người giật mình. Thực ra, dù có tìm một góc vắng, một căn nhà nhỏ để đọc sách, để lánh đời thì âm vang cuộc sống vẫn cứ dội vào lòng. Vì thế, bên mạch thơ “tự thú”, “tự thức”, Nguyễn Văn Hùng còn có một mạch thơ khác, thể hiện bức tranh xã hội phồn tạp, chưa bao giờ bình yên giữa ồn ào phố thị. Đó là chuyện cơm áo, cơ cực đời thường (Tiếng vạc, Qua chợ lao động, Ở phố tôi sáng nào cũng vậy, Thành xích lô…). Đó là sự xuống cấp của đạo đức, văn hóa, sự vô cảm, thói cơ hội của con người (Chuyện bên Hồ Gươm, Độc thoại với Bruno, Trên phố, Sách cũ, Vô cảm ơn, chào mi…). Đó là sự đối xử phũ phàng với Thiên nhiên: Phố sau bão, Những lỗ thủng…Tiếng thơ tưởng như chỉ thầm thì, chấp nhận cô đơn ấy lại chính là tiếng thơ khát khao tình người, khát khao đồng cảm:

“Khi con người xáp lại gần nhau/ Bàn tay thường nắm chặt/ Niềm giao cảm xui nên ngàn lộc nõn”.- (Bài Sau Tết)

“Thì đành gặp nhé đầu năm vậy,/ Nghe người cười nói những xa xăm”.- (Bài Cuối năm)

Trong thơ Nguyễn Văn Hùng, cuộc đời dường như đang càng ngày càng buồn, con người càng ngày càng xa cách. Cảm hứng ngoái nhìn, xót xa cho tình người, tình bạn gần gũi, đầm ấm thủa nào đã tạo ra nhiều câu thơ giàu chất khái quát: “Lâu đã quen ồn ào quán xá/ Ít thấy bạn văn kéo bạn về nhà/ Nói còn ai nghe, chẳng nghe ai nói nữa/ Hồn chai dần những bình dị xưa xa” (Thơ viết cuối năm). Anh mong muốn con người hiểu nhau hơn, anh trân trọng những giọt nước mắt đồng cảm: “Nước mắt bây giờ thật hiếm/ Xin cho nhà thơ được khóc như trẻ thơ” (Ghi bên mộ mười cô gái). Con người thường suy tư trong cô đơn là con người sợ cô đơn. Câu thơ anh viết trong Nghĩa trang Liệt sỹ cô quạnh cũng ánh lên ước muốn sẻ chia: “Phía cao xanh tiếng chim chiều ẩn hiện/ Sỏi đá nơi đây có quạnh quẽ bao giờ” (Bên cỏ). Xứ sở anh mơ về là nơi ấm áp tình người, tình bạn:

“Miền tôi mơ/ Người thật người thật bạn/ Bạn kề bên chẳng phải đề phòng/ Biết cảm thông, tha thứ, trông mong”.- (Bài Miền tôi mơ)

Có người nói, thơ Nguyễn Văn Hùng ít có sự cách tân. Nhưng tôi nghĩ mỗi nhà thơ có cái “tạng” của mình (chữ dùng của Hoài Thanh). Những biểu tượng tân kỳ, ngôn từ vô thức, “đột sáng”, “vụt hiện” không phải là điều anh quan tâm nhiều. Thực ra, qua mỗi tập thơ, vẫn thấy sự biến đổi âm thầm của một phong cách. Thơ Hùng ngày càng giản dị, một sự giản dị gắn với cô đọng, súc tích, kiệm lời. Nhưng dù có biến đổi, cái cốt lõi xuyên suốt của thơ Nguyễn Văn Hùng vẫn là tiếng lòng chân thực, trung thực tận cùng với mình, với người; là tiếng thơ đi tìm sự giao cảm, sẻ chia “giữa tạp âm bụi bặm cõi người”. Điều đó, anh đã nhiều lần thổ lộ, gửi gắm trong thơ…

________________

Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Văn Hùng: “Tự thú”, Hội VHNT Nghệ – Tĩnh, 1989.

2. Nguyễn Văn Hùng: “Người rao mặt nạ”, NXB. Nghệ An, 2020.

3. Nguyễn Văn Hùng: “Thơ chọn (1975 – 2020”. NXB. Nghệ An, 2021.

4. Nhiều tác giả: “Nhà văn Nghệ An” (2020 – 2024), NXB. Nghệ An, 2024.

5. “Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam”, số 322 + 323, tháng 11, 12/2021. (Tạp chí của Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam).

Nguồn: https://vanvn.vn

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bàn tròn kỳ 37: Văn học và điện ảnh – Từ trang sách đến màn ảnh
Khi văn học bước vào phim hành động, cần giữ gì của nguyên tác và chấp nhận hy sinh gì cho nhịp điệu màn ảnh?
Xem thêm
Tính nhân văn và hiện thực trong Hoàng hôn lóng lánh
(Đôi điều về tiểu thuyết “Hoàng hôn lóng lánh”, Nxb Văn học, 2024)
Xem thêm
Tản mạn chuyện... thẩm thơ
Tôi không nhớ chính xác đã đọc bài tổng kết cuộc thi thơ của Xuân Diệu vào năm nào, nhưng ấn tượng về sự tinh tế của ông hoàng thơ tình này vẫn còn mãi. Có hai ví dụ về những góp ý của nhà thơ Xuân Diệu mà tôi không thể quên.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 36: Khi nhà thơ bị “vô hình” trong ca khúc phổ thơ
Có một nghịch lý đáng buồn trong đời sống âm nhạc – thơ ca: ca khúc phổ thơ thì nhiều, nhưng tên nhà thơ thường bị quên lãng.
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Khúc tri âm dịu dàng của một tâm hồn nữ tính
Tập thơ “Chữ gọi mùa trăng” của Triệu Kim Loan là thế giới nội tâm phong phú, đa chiều của một tâm hồn phụ nữ đầy trải nghiệm.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 35: Ai đang gieo “tin giả” trong văn học?
Ai mới thật sự gieo “tin giả” vào lòng công chúng? Và phải chăng chính sự thiếu minh bạch, thiếu chính trực của những người cầm bút mới là “chất độc” đầu độc niềm tin văn học hôm nay?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 34: Hư cấu nghệ thuật trong phim “Mưa đỏ”
Một tác phẩm nghệ thuật thành công không nằm ở việc tái hiện chính xác từng chi tiết, mà ở chỗ khơi dậy tình yêu nước và lòng biết ơn cha anh, để lịch sử tiếp tục sống động trong tâm thức nhiều thế hệ.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 33: Khi “cái kết nhân văn” đi nhanh hơn tâm lý nhân vật
Truyện muốn nhấn mạnh tình máu mủ nhưng lại quên rằng tình phụ tử cũng cần thời gian và sự bồi đắp. Khi sự hòa giải diễn ra quá nhanh, cái nhân văn mà tác giả mong muốn dễ trở thành “nhân văn nóng vội”, chưa kịp đi qua những ngập ngừng, day dứt – vốn là hơi thở của đời thường.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 32: Nguyễn Duy và tiếng chuông gọi tên mười loại phê bình
Bài văn tế đặc biệt của nhà thơ Nguyễn Duy – một lời cảnh tỉnh, một tiếng chuông thức tỉnh từ một thi sĩ từng trải
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 31: Trăm Ngàn – từ cẩu thả chữ nghĩa đến vụng về truyền thông
Lần này, chúng ta hãy nghe hai cây bút vốn được xem là “những kẻ lắm chuyện” – TS Hà Thanh Vân và nhà văn Đặng Chương Ngạn nói gì? Một người đào sâu từ góc độ truyền thông – giữa báo chí chính thống và mạng xã hội, một người lại lật tung những chi tiết cẩu thả và phi lý trong chính văn bản truyện.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 30: Khi ý tưởng bị đánh tráo
Bàn tròn Văn học kỳ 30 xin mời bạn đọc cùng đối thoại về câu chuyện này – không phải để truy cứu cá nhân, mà để suy nghĩ sâu xa hơn: văn chương sẽ đi về đâu, nếu lòng tin của người viết trẻ bị phản bội và lòng tin của công chúng bị bỏ rơi?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 29: Phản biện ẩn danh - Dũng khí hay sự né tránh?
Trong Bàn tròn kỳ này, câu chuyện nói về hiện tượng phản biện văn chương dưới những cái tên xa lạ, thậm chí là ẩn danh.
Xem thêm
Thi pháp của thơ ngắn – Trường hợp Mai Quỳnh Nam
Trong tất cả các thể loại văn học, thơ ca là nơi ưu tiên hàng đầu cho các hình thức ngắn gọn. Điều này không chỉ thể hiện ở độ dài khiêm tốn của các tập thơ mà còn nằm ở đặc trưng nội tại của thơ, vốn hướng đến sự cô đọng hơn so với các thể loại khác (như tiểu thuyết).
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 28: Minh bạch – từ chuyện nhỏ đến vấn đề lớn
Bàn tròn Văn học kỳ 28 không nhằm khơi gợi thị phi, càng không phải góp gậy góp đá “đánh hội đồng” một tổ chức nghề nghiệp mà chính “thư ký bàn tròn” này được vinh dự là hội viên.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 27: Công bằng trong xét giải - Từ quy chế đến thực tiễn
Giải thưởng văn học hằng năm của Hội Nhà văn Việt Nam đang đối diện một nghịch lý: quy chế một đằng, thực tế một nẻo.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” - Hành trình từ chiến trường đến nhân sinh
Lời ru bão giông của Trần Hóa không chỉ là một tập thơ, mà là bản hòa tấu của ký ức, trải nghiệm và những suy ngẫm về đời sống.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 26: Khi công bằng bị bỏ quên, im lặng trở thành câu trả lời
Bàn tròn Văn học kỳ này xin giới thiệu nội dung tóm lược của hai bức thư ngỏ – coi đó như một lời chất vấn trực diện, một thử thách đối với tính minh bạch và liêm chính của một cuộc thi văn chương quốc gia.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 25: Minh bạch là điều kiện sống còn của uy tín văn chương
Bàn tròn kỳ 25 chọn hai bài viết mới nhất của nhà văn Đặng Chương Ngạn về “thầy Uông” – thành viên Hội đồng Sơ khảo – như chất liệu để trao đổi thẳng thắn.
Xem thêm