TIN TỨC
icon bar

Lắng đọng “Đêm nằm nghe ký ức”

Người đăng: nguyenhung
Ngày đăng: 2023-10-26 08:53:16
mail facebook google pos stwis
1103 lượt xem

ĐẶNG BÁ TIẾN
(Giới thiệu tập thơ "Đêm nằm mơ ký ức" của Ngô Minh Oanh - NXB Hội Nhà văn, 2023)

Tôi chơi thân với Ngô Minh Oanh từ những năm cuối của thập niên 80 thế kỷ trước. Ngày ấy Ngô Minh Oanh đang là giảng viên của Đại học Tây Nguyên. Tôi chơi thân với anh vì nhiều lẽ, nhưng lẽ chính là chúng tôi cùng yêu thơ, đang tập tọng làm thơ. Tôi còn nhớ mãi mấy câu thơ sau đây của Ngô Minh Oanh, viết năm 1989: “Có gì diệu kỳ trong hạt giống nhỏ xinh / Phải chị gặp ở đây niềm vui sinh nở/ Dẫu cái phôi hãy còn bé nhỏ/ Đã nghe xôn xao đại thụ của rừng”. Đấy là Ngô Minh Oanh viết về chị công nhân ươm cây. Một lối viết giản dị, nhưng thật trìu mến, ấm áp, chan chứa niềm tin về cuộc đời, về tương lai. Đấy cũng là “tạng” thơ của Ngô Minh Oanh, rất hợp với “tạng” thơ tôi.

Bẵng đi một thời gian khá dài, Ngô Minh Oanh đi học ở Liên Xô, sau đó chuyển vào công tác ở Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh, chúng tôi ít liên lạc với nhau hơn. Ngô Minh Oanh cũng ít làm thơ hơn. Có lẽ do anh bận công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học lịch sử (anh là PGS-TS sử học). Dẫu vậy, trong thâm tâm tôi vẫn nghĩ: nhất định sẽ có ngày Ngô Minh Oanh trở lại với thơ, vì hồn thơ luôn thường trực trong anh.

Và rồi điều tôi nghĩ trên đây đến năm 2023 đã trở thành sự thật: Ngô Minh Oanh chính thức trình làng tập thơ riêng đầu tay “Đêm nằm nghe ký ức”. Một tập thơ chững chạc. Một tập thơ, theo tôi: để lại cho người đọc nhiều dư vị ngọt ngào, nhiều nỗi niềm đằm thắm. Tập thơ có 53 bài, chiếm hơn một nửa là thơ từ ký ức xa, nửa non còn lại là cảm xúc về quê hương, đất nước, về những con người với bao niềm vui, nỗi buồn mà anh được thấy, được gặp trên những chặng đường đời gần đây.

Ở mảng thơ về ký ức, tôi thực sự xúc động khi nghe anh thổ lộ: “Bao hoài niệm xa xôi giờ trỗi dậy/ Nửa đời người trắng tóc vẫn chưa phai”. Câu thơ rút ruột từ bao trải nghiệm, thăng trầm, bao nếm trải của một người luôn sâu nặng ân tình. Ân tình với cha mẹ, làng quê. Ân tình với tất cả những người anh đã có dịp gặp, dẫu chỉ thoáng qua trên “đường lá me bay”, hay buổi chiều “hoa tuyết đan dày” nơi xứ người. Và vì thế trái tim anh không bao giờ phai mờ hình ảnh của những người thân yêu. Đọc bài “Bà tôi”, tôi cảm phục và thương đến thắt lòng người bà của anh. Đời bà có nhiều éo le “Tin chồng, chồng lại đào hoa”, “Tin con, con lại đội dâu lên đầu”, nhưng bà vẫn sống bản lĩnh, vị tha, vẫn “Tảo tần dành để tiếng thơm”, vẫn “Tấm lòng thơm thảo, dưới trên chia đều”, tất cả để “Nghĩa dày chồng hưởng, phúc dành cháu con”. Có lẽ người bà của Ngô Minh Oanh cũng là người bà đại diện cho biết bao người bà, biết bao người phụ nữ Việt Nam có truyền thống chịu thương, chịu khó, nhẫn nhục, hết lòng vì chồng con.

Thế hệ chúng tôi lớn lên trong giai đoạn Mỹ ném bom bắn phá miền Bắc suốt ngày đêm, cũng vì thế ký ức về tuổi thơ thường hiện lên nhiều cơ cực, đầy sự thiệt thòi. Ngô Minh Oanh khái quát sự cơ cực ấy chỉ với mấy câu thơ: “Tiếng mẹ ru hời và tay mẹ chao nôi/ Cũng căng chật trong ngôi hầm trú ẩn/ Cánh cò bay la, cánh cò bay lả/ Cánh mới giương lên đã chạm nóc hầm”. Tiếng ru cũng thiếu không gian để lan tỏa, cánh cò bay cũng thiếu cả bầu trời để có thể “bay lả bay la”. Dĩ nhiên, tuổi thơ ngày ấy chẳng ai được tung tăng chạy nhảy, hò reo, chơi đùa. Hình ảnh tiếng ru, cánh tay mẹ chao nôi “căng chật” trong không gian hẹp của hầm trú ẩn; hình ảnh cánh cò vừa giương lên đã “chạm nóc hầm” trú ẩn là những hình ảnh đắt, với thế hệ chúng tôi nó có sức gợi và ám ảnh lớn.

Ký ức của Ngô Minh Oanh về quê hương thường gắn với dòng sông quê - dòng Kiến Giang. Cũng thật dễ hiểu. Tôi nhớ nhà thơ Bế Kiến Quốc từng viết: “Sinh ra ở đâu mà ai cũng anh hùng/ Tất cả trả lời sinh bên một dòng sông/... Chẳng phải rộng xa một tầm cò vỗ cánh/ Cũng xinh xinh vài sải chèo quẫy mạnh/ Quê hương Việt Nam mườn mượt những cánh đồng/ Mỗi con người gắn bó một dòng sông”. Là người Việt Nam hầu như ai cũng có “dòng sông quê mình”. Ngô Minh Oanh nhớ dòng Kiến Giang, bởi anh nhớ “Gáo nước mẹ tắm cho tôi đầu đời”; bởi anh biết mình “là mầm cây non bắt đầu cắm rễ/ Vào mạch nguồn đất mẹ để sum suê”; bởi anh chẳng thể quên “Đường tuổi thơ ngày đôi bận đi về/ Người lái đò một chân tỏa nụ cười đôn hậu”; bởi “Nước dạy tôi biết bơi trước khi biết chữ”; bởi dòng sông gắn với đời mẹ lam lũ, vắt kiệt sức trên cánh đồng, khi “lũ ngập đồng”, khi “gió Lào kiệt trơ, nứt nẻ”, anh “thương vết chân chim mắt mẹ/ Chân chạm đáy sông, dao cứa nhói lòng”.  Sông quê cũng gắn bó với những kỷ niệm đầu đời của chàng trai Ngô Minh Oanh thuở mới lớn: “Sông nuôi tôi đến ngày vỡ giọng/ Hát vu vơ đếm lá bến sông chiều/ Em quẫy gánh trăng quê, tuổi tròn trăng làm điệu/ Hoa lộc vừng ráng đỏ bến ngày xa”. Dòng sông quê như là nơi hội tụ tất cả tình cảm về quê nhà của anh. Và vì thế sông quê “muôn đời hồn hậu” trong anh và chảy “mải miết dọc đời” anh.

Rất nhiều ký ức khác trỗi dậy từ trái tim anh được thể hiện trong tập thơ, cho ta ấm áp, cho ta bồi hồi, xao xuyến, cho ta cả những nỗi niềm cảm thông, nhờ những câu thơ bình dị được chảy ra từ cảm xúc thật, từ tấm lòng của một người con Quảng Bình, dẫu đi xa, nhưng “đêm về còn biết thao thức với quê hương”. Đây cũng là mảng thơ ấn tượng với tôi nhất trong tập thơ này; bởi không chỉ tôi là người cùng thế hệ với tác giả, dễ đồng cảm, mà quan trọng hơn, thông điệp từ tập thơ, tôi tin sẽ được lan tỏa tới thế hệ trẻ hôm nay. Cũng vì thế tôi rất đồng tình với PGS-TS Bùi Thanh Truyền trong lời giới thiệu mở đầu tập thơ đã viết: “Năng lượng từ quá khứ lan tỏa trong hiện tại, để không ngừng “ủ chồi xanh những mầm xuân”.

Ở mảng thơ thứ hai, Ngô Minh Oanh trải lòng với người đọc về những gì anh thấy trên đường đời những năm gần đây, khiến trái tim anh phải lưu dấu, khiến đầu óc anh phải suy ngẫm, chiêm nghiệm. Đến thăm nhà tù Côn Đảo - nơi bọn cai ngục khét tiếng tàn bạo - bắt gặp những cây si quấn quýt với những cây bàng, anh rút ra một điều thú vị: “Lạ kỳ thay cây cũng như người/ Giữa khắc nghiệt thiên nhiên, giữa ngục tù khốc liệt/ Biết tựa vào mình, tựa vào nhau, sống chết/ Cho cuộc đời, cho mạch sống hồi sinh”. Hẳn những hình ảnh đó cũng đã tiếp thêm sức mạnh cho các chiến sĩ cách mạng của chúng ta, dẫu bị giam cầm, đày đọa trong ngục tù, biết đoàn kết với nhau hơn để chiến thắng kẻ thù.

Trở lại Đồng Hới, thành phố quê hương, đi trong đêm hoa sữa cùng người bạn gái, cảm xúc trào dâng, hồn thơ Ngô Minh Oanh thăng hoa, nhờ thế ta được đọc những câu thơ đầy xao xuyến và được thấy mình như trẻ lại: “Thoang thoảng thôi nhé em/ Đủ để gần nhau, đủ để nồng nàn/ Đủ để nhớ nhau ngày xa/ Đêm hoa sữa/... Em cho anh lạc niềm sâu thẳm/ Những thanh âm cuộc đời mong manh nhất/ Tưởng đã lãng quên giữa tất bật đời người/ Bỗng rung lên trong ngực anh rất thật”.

Rất nhiều, rất nhiều những cảm nhận, nghĩ suy, chiêm nghiệm thú vị có trong tập thơ của Ngô Minh Oanh. Xin mời bạn yêu thơ hãy bước chân vào vườn thơ Ngô Minh Oanh để cùng khám phá. Riêng tôi, đọc tậpthơ  này, khép lại trang cuối đã mấy tuần rồi, ngoài những cảm nhận nêu trên, tôi cứ vấn vương ngẫm ngợi mãi về bài thơ ngắn mang tên Lá, chỉ bốn câu : “Khi xanh chẳng đậu vào vai/ Đến khi vàng lá lại rơi vào lòng/ Sự đời có trớ trêu không/ Nửa tay muốn hứng, nửa lòng đành ngơ!”.

Nguồn: Báo ĐakLak số 22/10/2023.

Bình luận

Để lại comment

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bàn tròn kỳ 34: Hư cấu nghệ thuật trong phim “Mưa đỏ”
Một tác phẩm nghệ thuật thành công không nằm ở việc tái hiện chính xác từng chi tiết, mà ở chỗ khơi dậy tình yêu nước và lòng biết ơn cha anh, để lịch sử tiếp tục sống động trong tâm thức nhiều thế hệ.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 33: Khi “cái kết nhân văn” đi nhanh hơn tâm lý nhân vật
Truyện muốn nhấn mạnh tình máu mủ nhưng lại quên rằng tình phụ tử cũng cần thời gian và sự bồi đắp. Khi sự hòa giải diễn ra quá nhanh, cái nhân văn mà tác giả mong muốn dễ trở thành “nhân văn nóng vội”, chưa kịp đi qua những ngập ngừng, day dứt – vốn là hơi thở của đời thường.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 32: Nguyễn Duy và tiếng chuông gọi tên mười loại phê bình
Bài văn tế đặc biệt của nhà thơ Nguyễn Duy – một lời cảnh tỉnh, một tiếng chuông thức tỉnh từ một thi sĩ từng trải
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 31: Trăm Ngàn – từ cẩu thả chữ nghĩa đến vụng về truyền thông
Lần này, chúng ta hãy nghe hai cây bút vốn được xem là “những kẻ lắm chuyện” – TS Hà Thanh Vân và nhà văn Đặng Chương Ngạn nói gì? Một người đào sâu từ góc độ truyền thông – giữa báo chí chính thống và mạng xã hội, một người lại lật tung những chi tiết cẩu thả và phi lý trong chính văn bản truyện.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 30: Khi ý tưởng bị đánh tráo
Bàn tròn Văn học kỳ 30 xin mời bạn đọc cùng đối thoại về câu chuyện này – không phải để truy cứu cá nhân, mà để suy nghĩ sâu xa hơn: văn chương sẽ đi về đâu, nếu lòng tin của người viết trẻ bị phản bội và lòng tin của công chúng bị bỏ rơi?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 29: Phản biện ẩn danh - Dũng khí hay sự né tránh?
Trong Bàn tròn kỳ này, câu chuyện nói về hiện tượng phản biện văn chương dưới những cái tên xa lạ, thậm chí là ẩn danh.
Xem thêm
Thi pháp của thơ ngắn – Trường hợp Mai Quỳnh Nam
Trong tất cả các thể loại văn học, thơ ca là nơi ưu tiên hàng đầu cho các hình thức ngắn gọn. Điều này không chỉ thể hiện ở độ dài khiêm tốn của các tập thơ mà còn nằm ở đặc trưng nội tại của thơ, vốn hướng đến sự cô đọng hơn so với các thể loại khác (như tiểu thuyết).
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 28: Minh bạch – từ chuyện nhỏ đến vấn đề lớn
Bàn tròn Văn học kỳ 28 không nhằm khơi gợi thị phi, càng không phải góp gậy góp đá “đánh hội đồng” một tổ chức nghề nghiệp mà chính “thư ký bàn tròn” này được vinh dự là hội viên.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 27: Công bằng trong xét giải - Từ quy chế đến thực tiễn
Giải thưởng văn học hằng năm của Hội Nhà văn Việt Nam đang đối diện một nghịch lý: quy chế một đằng, thực tế một nẻo.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” - Hành trình từ chiến trường đến nhân sinh
Lời ru bão giông của Trần Hóa không chỉ là một tập thơ, mà là bản hòa tấu của ký ức, trải nghiệm và những suy ngẫm về đời sống.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 26: Khi công bằng bị bỏ quên, im lặng trở thành câu trả lời
Bàn tròn Văn học kỳ này xin giới thiệu nội dung tóm lược của hai bức thư ngỏ – coi đó như một lời chất vấn trực diện, một thử thách đối với tính minh bạch và liêm chính của một cuộc thi văn chương quốc gia.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 25: Minh bạch là điều kiện sống còn của uy tín văn chương
Bàn tròn kỳ 25 chọn hai bài viết mới nhất của nhà văn Đặng Chương Ngạn về “thầy Uông” – thành viên Hội đồng Sơ khảo – như chất liệu để trao đổi thẳng thắn.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 24: Trăm Ngàn câu hỏi, một chữ Minh bạch
Xin mời bạn đọc cùng ngồi lại, để lắng nghe, để bàn luận, và biết đâu, để cùng trả lời câu hỏi day dứt: Liệu văn chương Việt có thể đứng thẳng bằng phẩm giá của nó, hay sẽ mãi lẫn lộn trong những “trăm ngàn” trò chơi lợi ích?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 23: Giải thưởng, danh hiệu và chuẩn mực văn chương hôm nay
Nếu ở các kỳ trước, chúng ta chủ yếu xoay quanh truyện ngắn Trăm Ngàn, thì lần này, hai ý kiến góp mặt mở rộng vấn đề sang một góc nhìn gai góc hơn: chuyện “lợi ích nhóm” trong đời sống văn học – nghệ thuật.
Xem thêm
Những câu thơ thức “canh chừng lãng quên”
Với cảm hứng từ hai tứ thơ độc đáo – Cõng bạn đi chơi của Vương Cường và Dìu mẹ đi thăm mộ mình của Hồ Minh Tâm – bài viết của Bùi Sỹ Hoa (đăng trên Tạp chí Sông Lam, số 7/2025) đưa người đọc bước vào thế giới thơ về đề tài thương binh – liệt sĩ bằng một góc nhìn mới mẻ, giàu sức ám ảnh.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Đức Hạnh, nỗi niềm thành mây trắng
Cánh buồm thao thức trân trọng giới thiệu bài viết của TS, nhà thơ, nhà phê bình Lê Thành Nghị - một bài viết công phu, giúp người đọc soi chiếu tập thơ Khát cháy từ nhiều chiều, để người đọc khám phá một “hiện thực khác” giàu thi vị.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 22: “Một truyện ngắn dở như thế thì cãi nhau làm cái gì?”
Với góc nhìn của một người giàu trải nghiệm nghệ thuật, đạo diễn Lê Hoàng đã viết một status “thẳng ruột ngựa” về Trăm Ngàn: không quanh co, không xoa dịu, không hề sợ đụng chạm.
Xem thêm
Hà Thanh Vân: “Tôi đã định không nói gì thêm…” – Nhưng ai cho tôi yên đâu!
“Tôi đã định không nói gì thêm…” – nhưng rồi, như một tật xấu khó bỏ, TS Hà Thanh Vân lại tiếp tục viết.
Xem thêm