TIN TỨC
icon bar

Những câu thơ thức “canh chừng lãng quên”

Người đăng: nguyenhung
Ngày đăng: 2025-08-15 06:50:09
mail facebook google pos stwis
1192 lượt xem

Với cảm hứng từ hai tứ thơ độc đáo – Cõng bạn đi chơi của Vương Cường và Dìu mẹ đi thăm mộ mình của Hồ Minh Tâm – bài viết của Bùi Sỹ Hoa (đăng trên Tạp chí Sông Lam, số 7/2025) đưa người đọc bước vào thế giới thơ về đề tài thương binh – liệt sĩ bằng một góc nhìn mới mẻ, giàu sức ám ảnh. Không chỉ tái hiện hiện thực khốc liệt và những mất mát hậu chiến, tác giả còn chỉ ra vẻ đẹp lặng lẽ của niềm tin và hy vọng, để những câu thơ mãi thức “canh chừng lãng quên” khi chiến tranh đã lùi xa.

BÙI SỸ HOA

Không hiểu sao mỗi khi ngồi trước trang giấy trắng mông lung, tôi lại hướng tâm về điều không hề mới mẻ này “viết là tìm đến những cái mới, tạo ra những thông điệp mới, hoặc ít nhất là làm tươi lại những chuyện đã cũ..”1. Đó chính là trăn trở luôn được đặt ra đối với người viết, đặc biệt là viết về chiến tranh cách mạng và người lính, với đề tài thương binh - liệt sĩ vốn rất quen thuộc và thiết thân với nhiều thế hệ cầm bút.

Đã có không ít những tác phẩm văn học thành công về đề tài quan trọng nói trên và khi có độ lùi cần thiết của thời gian/năm tháng, với sự tìm tòi, khám phá của người viết, sẽ tiếp tục cho ra đời nhiều tác phẩm mới có giá trị, dù không thể đạt tới trong một sớm, một chiều. Trong quá trình chiêm nghiệm và lao tâm khổ tứ đó, những sáng tác mang dấu ấn mới mẻ, những bài thơ/tứ thơ/câu thơ độc đáo, tạo dấu ấn riêng là những đóng góp cụ thể, xứng đáng được ghi nhận.

Bài thơ Cõng bạn đi chơi của Vương Cường in trong tập thơ Canh chừng lãng quên (Nhà xuất bản Văn học, 2016), từng được nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đánh giá cao về cả tập thơ và bình bài thơ này trên báo Văn Nghệ số 44/2016. Là người lính từng chiến đấu ở Thành cổ Quảng Trị mùa hè đỏ lửa 1972, từng có mặt trong các chiến dịch Mùa xuân 1975 lịch sử rồi trở lại mái trường đại học, dù làm gì và ở đâu, Vương Cường vẫn đau đáu, trằn trọc với những năm tháng chiến tranh, với những người đồng đội đã ngã xuống, những người từng che chở cho nhau trước bom đạn, những người gác chung trong một căn hầm mà nay không biết sống chết ra sao, đi đâu về đâu dưới gầm trời này. Đó là con người/ngòi bút mang trong mình bao vết thương chiến tranh, trải bao ngày hòa bình, xa xăm mà vẫn không bao giờ liền sẹo được, để rồi nhà thơ viết nên “Trong đáy mắt có vài vết sẹo/ Vết sẹo nước mắt bào không khô”, để cuộc sống/cuộc đời thờ hậu chiến trong anh là nỗi ám ảnh đêm đêm “Không ai bắn mà trái tim buôn buốt”…Trong nền chung ngột ngạt và thăm thẳm ấy, Vương Cường bỗng phát hiện ra “một giấc mơ đặc biệt, một tứ thơ độc đáo” (Nguyễn Trọng Tạo)1 có tên là Cõng bạn đi chơi. Nhà thơ ghi lại rõ rành hoàn cảnh, bối cảnh cụ thể, cũng là tạo cớ để giải thích cho sự việc:

 

“Nằm dưới đáy sông Thạch Hãn

úp mặt vào bùn

mày nhìn thấy gì đâu

đôi chân đứt lìa mấy đoạn

mày có đi được đâu…”

 

Như thế cũng chưa đủ, nhà thơ tiếp tục bằng cách nói về mình, không chỉ một đêm, một lần mà nhiều đêm, nhiều lần, lặp đi lặp lại trong tâm khảm:

 

“Đêm đêm trăng lạc giọng trước hiên nhà

Gió giật đùng đùng trong cơn điên dại

Cái miệng mày bê bết máu

Tao có ngủ được đâu…”

Vậy là đủ cớ, đủ điều kiện để “Thức cõng bạn đi mấy vòng cho đã”, một câu chuyện trong mơ, chuyện ảo mà nói toàn chuyện thật của đời sống. “Bạn” ở đây là đồng đội cơm sẻ nửa, chăn đắp cùng, đạn bom sống chết có nhau nên thường không giấu diếm nhau một điều gì, không ngăn cách một điều gì. Bởi thế mới có chuyện “Mày hăm hở đến nhà người yêu”, “Mày xăm xăm chạy ùa tìm mẹ” và đặc biệt nhất là chi tiết hư mà vô cùng thực “Mày loạng choạng vào bàn thờ thắp hương”. Bài thơ/tứ thơ độc đáo chính là ở những chi tiết/hình ảnh thường ngày nhưng được đặt vào hoàn cảnh, trạng huống hiếm gặp, hiếm thấy. Hơn nữa, hiện thực cuộc đời ra sao, nỗi đau chìm khuất ra sao mà lâu nay chúng ta giếu nhẹm, bỏ lơ thì nay được nhà thơ mô tả chính xác, nóng rẫy như thường ngày vẫn thế. Đó là theo thời gian không chiều lòng người, có một sự thật không thể tránh khỏi: người yêu bạn nay là “bà già nhăn nheo, tóc bạc”, bố mẹ đồng đội đều đã quy tiên sau mỏi mòn trông ngóng…

Nhưng Vương Cường không dừng lại ở miêu tả hiện thực nghiệt ngã mà đủ bản lĩnh để nhìn ra trong đó những điều không dễ gì có được ở nơi hậu phương đầy hy sinh lặng lẽ. Đừng quên trong thẳm sâu của người chờ đợi luôn ánh lên sau ngọn đèn mờ tỏ “trong đáy mắt có vài vết sẹo/vết sẹo nước mắt bào không khô”. Đừng quên ở quê nhà, nơi cỏ xanh “hai nấm đất một thời biết khóc/đêm đêm thả nước mắt vào mưa/thả buồn vào gió/thả mong chờ vào hư vô”. Hiện thực tàn nhẫn là một phần của cuộc sống, một phía của cuộc đời. Và vẫn còn phía khác của niềm tin, của hy vọng, của những chìm khuất sẽ được cất tiếng, vang vọng và sáng lên trong thăm thẳm cõi người. Cái hay, cái hoàn mỹ của tứ thơ/bài thơ chính là chỗ đó, nói cái không có thật trên cơ sở sự thật và hướng đến sự thật, nói “trắng ra” hiện thực chát chúa, nhưng không bao giờ quên niềm tin, không bao giờ mất hy vọng ngay cả trong mất mát, hy sinh vô bến, vô bờ.

Giấc mơ và tứ thơ của Vương Cường rồi cũng khép lại để trở về hiện thực “Thôi mày về đi/cái thằng hai mươi tuổi/tao thương mày/mày chẳng biết thương tao”. Bấy giờ, người không về vẫn là “cái thằng hai mươi tuổi” và người trở về mang vết thương chiến tranh vẫn đêm đêm thổn thức cùng giấc mơ “Cõng bạn đi chơi”, nghĩa là sống trọn đời với người đã bỏ mình vì nước như một sứ mệnh, để Canh chừng lãng quên như chính nhà thơ từng khẳng định, đóng mốc vào cuộc đời, vào văn học những ám ảnh khôn nguôi của người ra trận và sống sót trở về.

 

Nếu tính từ thời điểm xuất bản của bài thơ Cõng bạn đi chơi của Vương Cường là năm 2016, thì khoảng 5 năm sau, đến tháng 7/2021, Tạp chí Văn nghệ Quân đội giới thiệu chùm thơ ba bài của Hồ Minh Tâm: Nơi trần gian mẹ đợi, Dìu mẹ đi thăm mộ mình và Cưới một mình, một năm sau 7/2022 Tạp chí giới thiệu tiếp chùm thơ Đêm vọng, Mẹ kể đều có chung đề tài thương binh – liệt sĩ, có tứ thơ lạ, độc đáo, là sự tiếp nối, phát triển đáng nói về câu chuyện mà chúng ta đang bàn tới. Hồ Minh Tâm sinh ra và lớn lên trong chiến tranh, không trực tiếp chiến đấu nhưng được “hưởng” đầy đủ những năm tháng bom rơi, đạn nổ và nhất là hậu quả tàn khốc mà chiến tranh để lại dai dẳng trong mỗi con người, cảnh vật gắn bó bên mình. Nhà thơ “kể” những câu chuyện về chiến tranh theo một hướng tiếp cận khác so với cách viết trực tiếp, trực diện thường thấy. Chẳng hạn, trong bài Dìu mẹ đi thăm mộ mình, đề từ: Trước tấm bia chung “chưa có tên” như là một bối cảnh, cái cớ để “nhân vật kể” là người liệt sĩ chưa có tên “dìu mẹ đi thăm mộ mình”, qua từng câu thơ như những bậc thang “dẫn người đọc bước vào không gian của thời hậu chiến với những mất, những còn hiện dần lên theo từng con chữ”2.

Đó là “cây bồ đề trạc tuổi con”, là “luống hoa cánh bướm”, là “lối về cuội nhỏ”, là “phiến đá thật thà”, “viên gạch mồ côi”, là “bạn con”, “em gái hàng xóm nhà mình” và “con nằm ở giữa”, rồi “bên phải thằng Nam/bên trái thằng Hùng/trên đầu thằng Dũng/dưới chân/là em Hòa quê mình…”. Tất, tất cả đều quen thuộc, gắn bó, đều dễ gần, dễ nhớ, đều có một cuộc sống với màu sắc, hương vị riêng. Hãy nghe Hổ Minh Tâm đi sâu vào câu chuyện với việc “tả” cây bồ đề ngày ngày “với xanh về trăm ngả”, luống hoa cánh bướm “đung đưa, run rẩy thơm tho/thả đỏ xanh tím vàng lên gió”, lối về cuội nhỏ “buồn vui thinh lặng xe tròn” vô cùng đúng, trùng khớp với tâm trạng của người mẹ vò võ ngóng đợi tin con .Để từ đó, nhà thơ đi đến một khái quát, một thực tế vừa cụ thể vừa bay bổng mà đọc lên cứ rưng rưng, rớm lệ:

Chúng con giờ chung một tên

chúng con giờ cùng một tuổi

là lá bồ đề

là hoa cánh bướm

là khói lay nhòe phía mẹ chiều hôm”

Hai nhà thơ thuộc hai thế hệ khác nhau, đều biết cách hóa thân vào sự việc, con người khác nhau, bằng các tứ thơ mới mẻ, độc đáo để tạo nên hiệu ứng nghệ thuật cần thiết. Hai “nhân vật kể” trong thơ, người thì “Cõng bạn đi chơi”, người thì “Dìu mẹ đi thăm mộ mình” đều hướng tới một điều cụ thể là nói về người đã khuất với một hiện thực sống động liên quan trực tiếp với người đang sống, đang chờ đợi và hy vọng. Đó là sự tìm tòi, khám phá thú vị về nghệ thuật, bắt nguồn từ việc tạo lập tứ thơ, ý thơ độc đáo, mới mẻ như bản chất vốn có cũng như yêu cầu đổi mới văn học xưa nay.

Văn học về đề tài thương binh- liệt sĩ nói chung và thơ nói riêng còn có vô vàn những sáng tạo độc đáo, chân thực mà những bài thơ nói trên chỉ là những ví dụ tiêu biểu từ góc nhìn hạn hẹp của người viết. Những tác phẩm chất lượng cao về đề tài này nhìn chung đều tạo ra những cảm nhận mới về không gian, thời gian, sự khốc liệt và cái giá của chiến thắng được mở ra theo chiều kích mới hơn, hậu quả cũng như thành quả cuộc chiến vì thế được cảm nhận rõ ràng, sâu sắc và cao cả hơn. Từ đó tạo hiệu ứng công chúng rộng rãi, sức tưởng tượng dành cho người đọc từng bước vượt ra ngoài văn bản của từng câu thơ, từng bài thơ không chỉ trong từng thời điểm, giai đoạn mà cả chiều dài, chiều sâu năm tháng. Đó thực sự là những bài thơ/tứ thơ độc đáo luôn thức đứng “canh chừng lãng quên” khi chiến tranh dần lùi xa và biến động phức tạp của xã hội thời hậu chiến.,

--------

1. Những “văn bản tâm hồn” cất lên từ đời sống, Văn nghệ Quân đội 10/1/2023

2. Người canh chừng lãng quên, Báo Văn Nghệ số 44/2016

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bàn tròn kỳ 36: Khi nhà thơ bị “vô hình” trong ca khúc phổ thơ
Có một nghịch lý đáng buồn trong đời sống âm nhạc – thơ ca: ca khúc phổ thơ thì nhiều, nhưng tên nhà thơ thường bị quên lãng.
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Khúc tri âm dịu dàng của một tâm hồn nữ tính
Tập thơ “Chữ gọi mùa trăng” của Triệu Kim Loan là thế giới nội tâm phong phú, đa chiều của một tâm hồn phụ nữ đầy trải nghiệm.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 35: Ai đang gieo “tin giả” trong văn học?
Ai mới thật sự gieo “tin giả” vào lòng công chúng? Và phải chăng chính sự thiếu minh bạch, thiếu chính trực của những người cầm bút mới là “chất độc” đầu độc niềm tin văn học hôm nay?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 34: Hư cấu nghệ thuật trong phim “Mưa đỏ”
Một tác phẩm nghệ thuật thành công không nằm ở việc tái hiện chính xác từng chi tiết, mà ở chỗ khơi dậy tình yêu nước và lòng biết ơn cha anh, để lịch sử tiếp tục sống động trong tâm thức nhiều thế hệ.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 33: Khi “cái kết nhân văn” đi nhanh hơn tâm lý nhân vật
Truyện muốn nhấn mạnh tình máu mủ nhưng lại quên rằng tình phụ tử cũng cần thời gian và sự bồi đắp. Khi sự hòa giải diễn ra quá nhanh, cái nhân văn mà tác giả mong muốn dễ trở thành “nhân văn nóng vội”, chưa kịp đi qua những ngập ngừng, day dứt – vốn là hơi thở của đời thường.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 32: Nguyễn Duy và tiếng chuông gọi tên mười loại phê bình
Bài văn tế đặc biệt của nhà thơ Nguyễn Duy – một lời cảnh tỉnh, một tiếng chuông thức tỉnh từ một thi sĩ từng trải
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 31: Trăm Ngàn – từ cẩu thả chữ nghĩa đến vụng về truyền thông
Lần này, chúng ta hãy nghe hai cây bút vốn được xem là “những kẻ lắm chuyện” – TS Hà Thanh Vân và nhà văn Đặng Chương Ngạn nói gì? Một người đào sâu từ góc độ truyền thông – giữa báo chí chính thống và mạng xã hội, một người lại lật tung những chi tiết cẩu thả và phi lý trong chính văn bản truyện.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 30: Khi ý tưởng bị đánh tráo
Bàn tròn Văn học kỳ 30 xin mời bạn đọc cùng đối thoại về câu chuyện này – không phải để truy cứu cá nhân, mà để suy nghĩ sâu xa hơn: văn chương sẽ đi về đâu, nếu lòng tin của người viết trẻ bị phản bội và lòng tin của công chúng bị bỏ rơi?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 29: Phản biện ẩn danh - Dũng khí hay sự né tránh?
Trong Bàn tròn kỳ này, câu chuyện nói về hiện tượng phản biện văn chương dưới những cái tên xa lạ, thậm chí là ẩn danh.
Xem thêm
Thi pháp của thơ ngắn – Trường hợp Mai Quỳnh Nam
Trong tất cả các thể loại văn học, thơ ca là nơi ưu tiên hàng đầu cho các hình thức ngắn gọn. Điều này không chỉ thể hiện ở độ dài khiêm tốn của các tập thơ mà còn nằm ở đặc trưng nội tại của thơ, vốn hướng đến sự cô đọng hơn so với các thể loại khác (như tiểu thuyết).
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 28: Minh bạch – từ chuyện nhỏ đến vấn đề lớn
Bàn tròn Văn học kỳ 28 không nhằm khơi gợi thị phi, càng không phải góp gậy góp đá “đánh hội đồng” một tổ chức nghề nghiệp mà chính “thư ký bàn tròn” này được vinh dự là hội viên.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 27: Công bằng trong xét giải - Từ quy chế đến thực tiễn
Giải thưởng văn học hằng năm của Hội Nhà văn Việt Nam đang đối diện một nghịch lý: quy chế một đằng, thực tế một nẻo.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” - Hành trình từ chiến trường đến nhân sinh
Lời ru bão giông của Trần Hóa không chỉ là một tập thơ, mà là bản hòa tấu của ký ức, trải nghiệm và những suy ngẫm về đời sống.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 26: Khi công bằng bị bỏ quên, im lặng trở thành câu trả lời
Bàn tròn Văn học kỳ này xin giới thiệu nội dung tóm lược của hai bức thư ngỏ – coi đó như một lời chất vấn trực diện, một thử thách đối với tính minh bạch và liêm chính của một cuộc thi văn chương quốc gia.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 25: Minh bạch là điều kiện sống còn của uy tín văn chương
Bàn tròn kỳ 25 chọn hai bài viết mới nhất của nhà văn Đặng Chương Ngạn về “thầy Uông” – thành viên Hội đồng Sơ khảo – như chất liệu để trao đổi thẳng thắn.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 24: Trăm Ngàn câu hỏi, một chữ Minh bạch
Xin mời bạn đọc cùng ngồi lại, để lắng nghe, để bàn luận, và biết đâu, để cùng trả lời câu hỏi day dứt: Liệu văn chương Việt có thể đứng thẳng bằng phẩm giá của nó, hay sẽ mãi lẫn lộn trong những “trăm ngàn” trò chơi lợi ích?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 23: Giải thưởng, danh hiệu và chuẩn mực văn chương hôm nay
Nếu ở các kỳ trước, chúng ta chủ yếu xoay quanh truyện ngắn Trăm Ngàn, thì lần này, hai ý kiến góp mặt mở rộng vấn đề sang một góc nhìn gai góc hơn: chuyện “lợi ích nhóm” trong đời sống văn học – nghệ thuật.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Đức Hạnh, nỗi niềm thành mây trắng
Cánh buồm thao thức trân trọng giới thiệu bài viết của TS, nhà thơ, nhà phê bình Lê Thành Nghị - một bài viết công phu, giúp người đọc soi chiếu tập thơ Khát cháy từ nhiều chiều, để người đọc khám phá một “hiện thực khác” giàu thi vị.
Xem thêm