TIN TỨC
icon bar

Bài thơ sông núi

Người đăng: nguyenhung
Ngày đăng: 2024-02-12 04:17:37
mail facebook google pos stwis
1393 lượt xem

NGUYỄN THANH

NGUYÊN TIÊU

   

Kim dạ Nguyên Tiêu nguyệt chính viên

               

Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên

               

Yên ba thâm xứ đàm quân sự

        

Dạ bán qui lai nguyệt mãn thuyền.

         滿  

                                            1948

                                    HỒ CHÍ MINH

                                       

 

Dịch thơ

 RẰM THÁNG GIÊNG

 Rằm xuân lồng lộng trăng soi

 Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân

 Giữa dòng bàn bạc việc quân

 Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

                                               1948

                                        XUÂN THỦY

 

Bài thơ “Nguyên Tiêu” thuộc chùm thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh được sáng tác tại chiến khu Việt Bắc trong thời kháng chiến chống Pháp: Nguyên Tiêu (Rằm tháng Giêng), Báo tiệp (Tin thắng trận), Thu dạ (Đêm thu), Tư chiến sĩ (Nhớ chiến sĩ), Đăng sơn (Lên núi)…

Sau chiến thắng thu đông năm 1947, sang xuân hè 1948, quân ta lại chiến thắng lớn trên đường số bốn. Niềm vui thắng trận tràn ngập tiền tuyến hậu phương. Trong không khí sôi động và phấn chấn ấy, bài thơ “Nguyên Tiêu” của Hồ Chí Minh xuất hiện trên báo “Cứu quốc” như một đóa hoa xuân rực rỡ và ngạt ngào hương sắc. Nhà thơ Xuân Thủy đã dịch tương đối đạt ra thể lục bát bài thơ bằng chữ Hán thất ngôn tứ tuyệt của Bác Hồ:

Rằm xuân lồng lộng trăng soi

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân

Giữa dòng bàn bạc việc quân

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

Bài thơ tả cảnh thơ mộng đêm Nguyên Tiêu giữa một không gian bao la ngời sáng ánh trăng, thể hiện cảm xúc dạt dào và niềm vui trong sáng nơi tâm hồn vị lãnh tụ thiên tài trong đêm rằm tháng Giêng lịch sử. Chỉ với bốn câu mang chủ đề về đêm Nguyên Tiêu, bài thơ đã vẽ lên được một bức tranh sông nước tuyệt vời, linh động có hồn mà không chỉ là “thi trung hữu họa” (trong thơ có vẽ). Bầu trời mênh mang của đêm rằm tháng Giêng với vầng trăng tròn vành vạnh (nguyệt chính viên) là bối cảnh đẹp tươi xinh và rất hữu tình:

Kim dạ Nguyên Tiêu nguyệt chính viên

(Rằm xuân lồng lộng trăng soi)

Đất nước thân yêu bao trùm một màu xanh bát ngát. Màu xanh lấp lánh của sông xuân, màu xanh trong như ngọc bích của “xuân thủy” tiếp nối với màu thiên thanh của bầu trời xuân. Cái thần của câu thơ thứ hai nổi bật trong cảnh sông nước trời xuân được tô đậm bằng cách điệp đi điệp lại từ xuân đến ba lần:

Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên

(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân) 

Xuân” ở đây mang ý nghĩa mùa xuân, tượng trưng cho tuổi trẻ với sinh lực mãnh liệt của con người. “Xuân” gợi tả nét đẹp thanh tú mà hùng vĩ và sức sống thần kỳ của đất nước ta: trong lửa đạn vẫn tiềm tàng dào dạt một sức bật trẻ trung. Nhà thơ dùng nét bút phác họa cảnh đêm Nguyên Tiêu để thể hiện tinh tế cảm xúc tự hào, niềm vui sướng mênh mông của một hồn thơ đang rung động giữa một đêm xuân lịch sử đẹp hào hùng, đất nước đang kiên cường kháng chiến.

Với Bác Hồ, yêu vẻ đẹp đêm Nguyên Tiêu, yêu thiên nhiên với trời trăng sông nước cũng là yêu đời tha thiết. Tình cảm cao thượng sáng trong này ta cũng thường cảm nhận được từ nhiều bài thơ trong “Nhật ký trong tù”: Ngắm trăng, Tặng Bùi Công… chan hòa lòng yêu tạo vật, tạo nên giai điệu trữ tình tô đậm sắc màu cổ tích. Nhưng trong “Nguyên Tiêu” thiên nhiên có thể coi như được xuất hiện với vai trò chính là làm “phông” để con người hành động và tuyên ngôn cho ý chí và hoài bão của mình.

Hai câu cuối bài thơ minh họa thêm dòng sông, khói sóng và con thuyền:

Yên ba thâm xứ đàm quân sự

Dạ bán qui lai nguyệt mãn thuyền.

(Giữa dòng bàn bạc việc quân,

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền)

Nếu ánh trăng ngày trước (1942-1943) chiếu vào ngục lạnh khi Bác bị giam giữ nơi đất khách quê người, thì đêm Nguyên Tiêu này (1948), ánh trăng lại soi xuống con thuyền Bác đang bàn bạc việc quân (đàm quân sự). Ở đây, trăng rằm tháng Giêng vằng vặc trong thơ Bác, chính là vầng trăng ước hẹn với bao hy vọng cho những mùa trăng huy hoàng trên đất nước. Đối lập với một số tao nhân mặc khách ngày trước đôi khi mượn cảnh “khói sóng trời xa” (yên ba thâm xứ) bộc lộ nỗi buồn riêng tư: “Yên ba thâm xứ hữu ngư châu” (Cao Bá Quát), “Yên ba giang thượng sử nhân sầu” (Thôi Hiệu)…, Bác thưởng trăng Nguyên Tiêu trong cảnh “khói sóng trời xa” như hành động của người chiến sĩ đánh giặc giữ nước. Vị lãnh tụ đang “bàn bạc việc quân” để lãnh đạo nhân dân kháng chiến bảo vệ non sông. Cả câu thơ thứ ba đã khắc chạm rõ nét dấu ấn hiện đại độc đáo thơ Bác – vần thơ thép đậm tính chiến đấu như quan điểm nghệ thuật lành mạnh mà Người đã từng tuyên ngôn: “Nay ở trong thơ nên có thép / Nhà thơ cũng phải biết xung phong”. (Cảm tưởng đọc Thiên gia thi) khiến cho những vần thơ Bác cho ta thấy rõ sắc màu lịch sử của thi ca thời đại Hồ Chí Minh.

Sau những canh dài bàn việc quân cơ căng thẳng trong khói sóng miền xa, khi trời đã về khuya, Bác trở về căn cứ địa cách mạng với tâm hồn lạc quan sảng khoái. Con thuyền của vị thống soái – con thuyền kháng chiến, đã trở thành con thuyền trăng của thi nhân trên sông nước mênh mông ngập ánh trăng vàng (nguyệt mãn thuyền)

Qua bài thơ “Nguyên Tiêu”, ta cảm nhận được trăng nước trong thơ Bác thật đẹp. Vầng trăng hữu tình trong đêm Nguyên Tiêu ấy đã thể hiện phong thái ung dung, tâm hồn thanh cao của vị lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc mang phong cách nghệ sĩ, nhà hiền triết phương đông.

Bài thơ viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt man mác sương khói Đường thi, với những hình ảnh quen thuộc: con thuyền, vầng trăng, có sông xuân, nước xuân và khói sóng. Nhạc thơ thanh thoát êm mơ quyện trùm một không gian bao la tĩnh lặng. Duy khác một điều, giữa khung cảnh thơ mộng trữ tình ấy, nhà thơ không cần phải có rượu để thưởng trăng và ngâm thơ vịnh phú, mà chỉ cốt “bàn bạc việc quân”. Như một áng hoa xuân đẹp trong mùa lửa đạn, bài thơ kết tụ được tinh hoa quí hiếm từ tâm hồn, trí tuệ và đạo đức của một vĩ nhân kiệt xuất.

Nguyên Tiêu” là bài thơ trăng tuyệt bút của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vầng trăng đẹp đêm Nguyên Tiêu phải chăng là biểu tượng ước mơ về một non sông hoa gấm thanh bình? Vì con thuyền trăng đã là con thuyền kháng chiến đang hướng về một chiến công phía trước. Và tiếng trăng ca hay màu trăng dải lung linh (trăng ngân) trên cảnh sông nước trời xuân, cũng chính là tiếng gọi của núi sông hay tiếng hát lạc quan của một “hồn thơ chiến sĩ”.

7.2. 2024
N. T

Bình luận

Để lại comment

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bàn tròn kỳ 34: Hư cấu nghệ thuật trong phim “Mưa đỏ”
Một tác phẩm nghệ thuật thành công không nằm ở việc tái hiện chính xác từng chi tiết, mà ở chỗ khơi dậy tình yêu nước và lòng biết ơn cha anh, để lịch sử tiếp tục sống động trong tâm thức nhiều thế hệ.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 33: Khi “cái kết nhân văn” đi nhanh hơn tâm lý nhân vật
Truyện muốn nhấn mạnh tình máu mủ nhưng lại quên rằng tình phụ tử cũng cần thời gian và sự bồi đắp. Khi sự hòa giải diễn ra quá nhanh, cái nhân văn mà tác giả mong muốn dễ trở thành “nhân văn nóng vội”, chưa kịp đi qua những ngập ngừng, day dứt – vốn là hơi thở của đời thường.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 32: Nguyễn Duy và tiếng chuông gọi tên mười loại phê bình
Bài văn tế đặc biệt của nhà thơ Nguyễn Duy – một lời cảnh tỉnh, một tiếng chuông thức tỉnh từ một thi sĩ từng trải
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 31: Trăm Ngàn – từ cẩu thả chữ nghĩa đến vụng về truyền thông
Lần này, chúng ta hãy nghe hai cây bút vốn được xem là “những kẻ lắm chuyện” – TS Hà Thanh Vân và nhà văn Đặng Chương Ngạn nói gì? Một người đào sâu từ góc độ truyền thông – giữa báo chí chính thống và mạng xã hội, một người lại lật tung những chi tiết cẩu thả và phi lý trong chính văn bản truyện.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 30: Khi ý tưởng bị đánh tráo
Bàn tròn Văn học kỳ 30 xin mời bạn đọc cùng đối thoại về câu chuyện này – không phải để truy cứu cá nhân, mà để suy nghĩ sâu xa hơn: văn chương sẽ đi về đâu, nếu lòng tin của người viết trẻ bị phản bội và lòng tin của công chúng bị bỏ rơi?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 29: Phản biện ẩn danh - Dũng khí hay sự né tránh?
Trong Bàn tròn kỳ này, câu chuyện nói về hiện tượng phản biện văn chương dưới những cái tên xa lạ, thậm chí là ẩn danh.
Xem thêm
Thi pháp của thơ ngắn – Trường hợp Mai Quỳnh Nam
Trong tất cả các thể loại văn học, thơ ca là nơi ưu tiên hàng đầu cho các hình thức ngắn gọn. Điều này không chỉ thể hiện ở độ dài khiêm tốn của các tập thơ mà còn nằm ở đặc trưng nội tại của thơ, vốn hướng đến sự cô đọng hơn so với các thể loại khác (như tiểu thuyết).
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 28: Minh bạch – từ chuyện nhỏ đến vấn đề lớn
Bàn tròn Văn học kỳ 28 không nhằm khơi gợi thị phi, càng không phải góp gậy góp đá “đánh hội đồng” một tổ chức nghề nghiệp mà chính “thư ký bàn tròn” này được vinh dự là hội viên.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 27: Công bằng trong xét giải - Từ quy chế đến thực tiễn
Giải thưởng văn học hằng năm của Hội Nhà văn Việt Nam đang đối diện một nghịch lý: quy chế một đằng, thực tế một nẻo.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” - Hành trình từ chiến trường đến nhân sinh
Lời ru bão giông của Trần Hóa không chỉ là một tập thơ, mà là bản hòa tấu của ký ức, trải nghiệm và những suy ngẫm về đời sống.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 26: Khi công bằng bị bỏ quên, im lặng trở thành câu trả lời
Bàn tròn Văn học kỳ này xin giới thiệu nội dung tóm lược của hai bức thư ngỏ – coi đó như một lời chất vấn trực diện, một thử thách đối với tính minh bạch và liêm chính của một cuộc thi văn chương quốc gia.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 25: Minh bạch là điều kiện sống còn của uy tín văn chương
Bàn tròn kỳ 25 chọn hai bài viết mới nhất của nhà văn Đặng Chương Ngạn về “thầy Uông” – thành viên Hội đồng Sơ khảo – như chất liệu để trao đổi thẳng thắn.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 24: Trăm Ngàn câu hỏi, một chữ Minh bạch
Xin mời bạn đọc cùng ngồi lại, để lắng nghe, để bàn luận, và biết đâu, để cùng trả lời câu hỏi day dứt: Liệu văn chương Việt có thể đứng thẳng bằng phẩm giá của nó, hay sẽ mãi lẫn lộn trong những “trăm ngàn” trò chơi lợi ích?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 23: Giải thưởng, danh hiệu và chuẩn mực văn chương hôm nay
Nếu ở các kỳ trước, chúng ta chủ yếu xoay quanh truyện ngắn Trăm Ngàn, thì lần này, hai ý kiến góp mặt mở rộng vấn đề sang một góc nhìn gai góc hơn: chuyện “lợi ích nhóm” trong đời sống văn học – nghệ thuật.
Xem thêm
Những câu thơ thức “canh chừng lãng quên”
Với cảm hứng từ hai tứ thơ độc đáo – Cõng bạn đi chơi của Vương Cường và Dìu mẹ đi thăm mộ mình của Hồ Minh Tâm – bài viết của Bùi Sỹ Hoa (đăng trên Tạp chí Sông Lam, số 7/2025) đưa người đọc bước vào thế giới thơ về đề tài thương binh – liệt sĩ bằng một góc nhìn mới mẻ, giàu sức ám ảnh.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Đức Hạnh, nỗi niềm thành mây trắng
Cánh buồm thao thức trân trọng giới thiệu bài viết của TS, nhà thơ, nhà phê bình Lê Thành Nghị - một bài viết công phu, giúp người đọc soi chiếu tập thơ Khát cháy từ nhiều chiều, để người đọc khám phá một “hiện thực khác” giàu thi vị.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 22: “Một truyện ngắn dở như thế thì cãi nhau làm cái gì?”
Với góc nhìn của một người giàu trải nghiệm nghệ thuật, đạo diễn Lê Hoàng đã viết một status “thẳng ruột ngựa” về Trăm Ngàn: không quanh co, không xoa dịu, không hề sợ đụng chạm.
Xem thêm
Hà Thanh Vân: “Tôi đã định không nói gì thêm…” – Nhưng ai cho tôi yên đâu!
“Tôi đã định không nói gì thêm…” – nhưng rồi, như một tật xấu khó bỏ, TS Hà Thanh Vân lại tiếp tục viết.
Xem thêm