- Ngôn ngữ-Lý luận - Phê bình
- Trăm ngàn câu chữ – trăm ngàn cách đọc
Trăm ngàn câu chữ – trăm ngàn cách đọc
KỲ 2
(Mời click vào avatar trên đây để truy cập thư mục)
Thưa quý bạn đọc,
Sáng nay, website Văn chương TP. Hồ Chí Minh – diễn đàn chính thức của Hội Nhà văn TP.HCM – đã mở chuyên mục “Bàn tròn văn học”, nhằm mời bạn đọc cùng tham gia trao đổi học thuật xung quanh truyện ngắn Trăm Ngàn – tác phẩm vừa đoạt giải Nhì Cuộc thi truyện ngắn 2022–2024 của Tuần báo Văn nghệ.
Tuy nhiên, sau khi bài viết có tiêu đề “Trăm ngàn câu chữ – trăm ngàn cách đọc” được đăng tải như một tiếng nói phản biện đầu tiên, nhà văn Uông Triều cùng một số thành viên trên trang Facebook Cộng đồng Văn xuôi đã cho biết đây không phải là bài viết của nhà văn Uông Triều, mà do một bạn đọc gửi tới.
Dù đã cố gắng liên hệ và xác minh, chúng tôi vẫn không thể xác định được danh tính chính thức của tác giả bài viết. Vì vậy, với tinh thần minh bạch và nghiêm túc, chúng tôi quyết định gỡ bài viết này khỏi website Hội Nhà văn, do Bàn tròn văn học không thể đăng tải những phản biện ẩn danh.
Tuy nhiên, với tư cách cá nhân, tôi xin chuyển bài viết nói trên về trang web riêng Nguyên Hùng – Cánh buồm thao thức để bạn đọc có thể tham khảo thêm một tiếng nói (mà vì một lý do tế nhị nào đó không tiện xưng danh) trong cộng đồng văn chương.
Rất mong quý độc giả thông cảm và tiếp tục gửi bài viết, ý kiến phản biện hoặc góc nhìn học thuật liên quan đến truyện ngắn Trăm Ngàn cũng như các vấn đề văn học khác về địa chỉ email: khoa7073@gmail.com. Chúng tôi sẽ ưu tiên chọn đăng trên Văn chương TP. Hồ Chí Minh những bài viết có tinh thần xây dựng, tên tuổi rõ ràng và có giá trị học thuật.
Trân trọng!
TM Ban Biên tập Văn chương TP. Hồ Chí Minh
Nguyên Hùng
Phần copy từ Văn chương TP. Hồ Chí Minh
Một truyện ngắn vừa đoạt giải Nhì Cuộc thi truyện ngắn 2022–2024 của Báo Văn nghệ – Trăm Ngàn – đã khơi lên nhiều luồng cảm xúc và đánh giá trái chiều trên văn đàn thời gian gần đây. Từ những vấn đề về cách kể chuyện, lựa chọn ngôn từ, thiết lập không gian và thời gian nghệ thuật… đến những câu hỏi về bản sắc miền, về cách đánh giá “sự giống” và “sự khác” trong văn chương đương đại.
Trên tinh thần trao đổi học thuật, Văn chương TP. Hồ Chí Minh đã giới thiệu hôm qua bài viết “Về một truyện ngắn vừa đoạt giải Nhì của báo Văn nghệ” của TS. Hà Thanh Vân, một phong cách phê bình mang giọng điệu giễu nhại, sắc sảo, đặt nghi vấn về tính chính xác của ngôn từ, bối cảnh, và cả cấu trúc nội dung của truyện.
Ngay sau đó, chúng tôi được đồng nghiệp chuyển cho một bài viết mà nhà văn Uông Triều cho biết là của một bạn đọc nhờ đăng lên trang FB Cộng đồng Văn xuôi. Đây là bài phản biện mạnh mẽ, dựa trên lý thuyết văn học đương đại, phân tích truyện ngắn Trăm Ngàn như một tác phẩm mang cảm quan hậu hiện đại – với sự pha giọng, phi thời gian và chú trọng biểu tượng hơn là hiện thực chính xác. Bài viết được nhắn qua zalo không có tiêu đề nên chúng tôi xin phép tác giả đặt tạm là “Trăm ngàn câu chữ – trăm ngàn cách đọc” và xin gửi tới bạn đọc dưới đây.
Văn chương TP. Hồ Chí Minh không nghiêng về bên nào đúng, bên nào sai. Điều chúng tôi mong muốn là tạo ra một bàn tròn văn học mà ở đó các ý kiến – dù đồng thuận hay đối lập – đều có chỗ đứng, miễn là được viết bằng tinh thần xây dựng, tôn trọng tác phẩm, và dựa trên cơ sở lý luận.
Xin mời bạn đọc cùng tham gia diễn đàn, góp thêm tiếng nói của mình – để phê bình không là phán xét, mà là hành trình khám phá vẻ đẹp của văn chương, và cả những giới hạn cần vượt qua.
TRĂM NGÀN CÂU CHỮ – TRĂM NGÀN CÁCH ĐỌC
MỘT BẠN ĐỌC
"Tác phẩm văn học không sinh ra để phục vụ một bảng danh mục “kiểm tra từ ngữ”, cũng không tồn tại để vừa lòng cái khung cố định về địa phương chí, từ vựng học hay thẩm mỹ học cổ lỗ. Phê bình văn học, nếu không có năng lực lý luận và cảm quan thẩm mỹ đúng đắn, rất dễ trượt thành sự miệt thị chữ nghĩa mang dáng dấp một bản “liệt kê lỗi chính tả vùng miền”.
Trong bài viết của tác giả Hà Thanh Vân đã cung cấp một ví dụ điển hình của thứ mà lý thuyết gia Edward Said từng gọi là “cultural defensiveness disguised as criticism”, một dạng phê bình phòng vệ bản sắc, thiếu chiều sâu phân tích và lệch chuẩn phương pháp.
Bài viết đưa ra các lập luận như: “miền Tây thì gọi ‘má’, không ai gọi ‘mẹ’”, “miền Tây không gọi ‘mùa hạn’ mà gọi ‘mùa khô’”, “từ ‘cu lơ’ không có trong từ điển”… Đây là một lỗi nghiêm trọng trong tiếp cận văn bản, đồng nhất từ vựng văn học với từ vựng từ điển học, đồng nhất ngữ liệu sáng tác với ngôn ngữ bản địa “tinh khiết”.
Phê bình hiện đại từ Bakhtin đến Genette đã chỉ rõ: trong một văn bản nghệ thuật, giọng kể không bao giờ là giọng độc nhất, mà là sự pha trộn (hội thoại) của nhiều giọng (polyphony). Ngôn ngữ nhân vật có thể Bắc, Nam, cổ, mới, điều đó không cấu thành “lỗi” nếu phục vụ được không gian cảm xúc, căn tính của nhân vật. Nhân vật Trăm Ngàn là người bị đẩy khỏi quê, sống lang bạt, bị xóa cội rễ, việc anh dùng ngôn ngữ pha trộn là tái hiện đúng bản thể trôi dạt và lệch chuẩn căn tính. Nếu anh nói “má”, “bình bông”, “mùa khô”, “ghe xuồng”, “ăn dưa mắm”... một cách đều đặn, đó mới là dối trá về mặt nhân vật học.
Nói cách khác, bài viết đã áp một mô hình “thuần chủng văn hóa” vào một văn bản mang bản chất dị chủng, di động, phi trung tâm, và gọi nó là “lỗi”. Đây là lỗi phê bình mô tả (descriptive criticism), chỉ dừng ở bề mặt ngôn từ mà không hề đi sâu vào kết cấu tư tưởng hay biểu tượng thẩm mỹ.
Ngôn ngữ trong truyện không phải “lẩu thập cẩm”, mà là hình thức giao thoa đa thanh. Tác phẩm Trăm Ngàn sử dụng ngôn ngữ theo hướng đa thoại và lai ghép, là đặc trưng của văn chương hậu hiện đại, nơi không có ranh giới cứng giữa “giọng kể” và “giọng nhân vật”, giữa “văn viết” và “văn nói”. Việc có xen lẫn giữa các biến thể vùng miền không nên được xem là lỗi, mà cần hiểu như một chọn lựa có chủ đích nhằm khắc họa đời sống di động, không định danh cố định của nhân vật và bối cảnh.
Việc sử dụng từ “mẹ”, “má”, “tía” là phản ánh thực tế vùng, miền trong trạng thái thay đổi, không nên áp đặt bản sắc vùng theo lối cố định hóa. Trên thực tế, ở các vùng giáp ranh, ảnh hưởng từ giọng miền Bắc và Trung du nhập qua giáo dục, báo chí, di cư đã tạo nên dạng ngôn ngữ lai ghép tự nhiên, trong đó từ “mẹ” được sử dụng phổ biến, đặc biệt là ở thế hệ trẻ hoặc người lưu lạc. Nhân vật Trăm Ngàn là người đã rời quê, sống trên ghe hát rong, tiếp xúc nhiều vùng miền, dùng “mẹ” là hợp logic nhân vật.
Từ “cu lơ” là tiếng lóng được Việt hóa từ “coolie” (cửu vạn), hoàn toàn có thật trong lời ăn tiếng nói dân gian. Từ này có mặt trong khẩu ngữ, nhưng chưa đi vào từ điển chính thống không có nghĩa là nó “bịa đặt”.
Việc sử dụng những cụm từ như “góc biển chân trời”, “gió không nhà”, “một hơi thở lìa đi” là văn chương mang tính ẩn dụ, không thể bị quy kết là “sến”, “sáo rỗng” nếu không có dẫn chứng so sánh hoặc phân tích thi pháp cụ thể.
Tác giả bài phê bình gốc dùng từ “sến” như một nhãn áp đặt cảm tính. Trong phê bình văn học nghiêm túc, đây là lỗi “phê bình đạo đức cảm tính” (moralistic judgmentalism), không được chấp nhận khi không có hệ quy chiếu lý luận văn học rõ ràng (xem Eagleton).
- Truyện ngắn Trăm Ngàn không định danh thời gian cụ thể, đây là lựa chọn có chủ đích, thường thấy trong văn học hậu hiện đại và dòng hiện thực huyền ảo.
Việc xuất hiện “giấy căn cước”, “tờ trăm ngàn”, “gánh hát rong” không nhất thiết bị quy chiếu vào một mốc lịch sử chính xác, bởi tác phẩm không hề tuyên bố là “dựa trên tư liệu lịch sử”. Đây là kiểu văn học phi thời gian cụ thể, được sử dụng để tái hiện một “hồi ức tập thể mờ nhoè”, nơi các chi tiết thời gian không cần trùng khít mà chỉ cần tạo được tính biểu tượng.
Việc phản biện “tờ trăm ngàn chưa có vào thời đó” là một lỗi đọc theo lối kiểm chứng hiện thực (realism verification), không phù hợp với bản chất thể loại truyện ngắn nghệ thuật.
Tác phẩm không đưa ra bất kỳ niên đại nào. Việc dùng tên “Trăm Ngàn” là để biểu tượng hóa giá trị con người bị định giá, bị trả về. Đây là một ẩn dụ sinh thành nhân vật, không thể bóp nghẹt nó bằng lối đọc “tra Google giá tiền”.
Một loạt dẫn chứng như: “tờ trăm ngàn chỉ xuất hiện sau năm 2000”, “giấy căn cước là ngôn ngữ trước 1975”, “miền Tây sau này không còn gánh hát rong”,… đều thể hiện một lối đọc văn học như đang dò lỗi sử học hoặc sai lệch hành chính. Lối đọc này vốn từng bị Roland Barthes cảnh báo từ thập niên 1960, ông gọi đó là “lỗi đọc hiện thực lầm lẫn” (le réalisme naïf).
Văn học không phải bản sao máy móc của hiện thực xã hội, mà là sự cấu trúc lại thực tại bằng biểu tượng, hư cấu, ẩn dụ và tinh thần thời đại. Việc một nhân vật tên Trăm Ngàn sinh ra từ một cú trả thù tình và bị định danh bằng giá trị tiền tệ, không phải là lỗi “tính sai niên đại”, mà là ẩn dụ xã hội sắc bén: giá của một đứa trẻ không được thừa nhận, bị dán nhãn, bị “định giá” và “trả lại”. Đó là giá trị biểu tượng, không phải là tờ tiền polymer.
- Việc đòi hỏi một truyện ngắn mang phong vị hiện thực trữ tình, ẩn dụ như Trăm Ngàn phải tuân thủ trật tự thời gian chính xác là một tai nạn về tư duy lý thuyết: đồng nhất văn học với khảo cổ học.
- Chủ đề “đi tìm mẹ” tuy cũ nhưng được kể bằng một tâm thế lặng lẽ, sâu sắc và mang tính triết lý.
- Truyện không nhằm “hô khẩu hiệu đạo lý” như tác giả phản biện gốc quy kết, mà dựng lên một thế giới bị từ chối yêu thương, nơi con người nương vào nhau trong cộng đồng thay thế. “Đi tìm mẹ” ở đây là đi tìm một thứ mẫu hệ bản thể đã thất lạc, tương đương với việc đi tìm gốc gác và căn cước.
- Những câu “đạo lý” như “sống một ngày trọn vẹn còn hơn cả đời buồn tẻ” không phải sáo rỗng, mà là tinh cốt của triết lý sống dân gian miền Nam, mang hơi hướng Phật giáo và tư tưởng hiện sinh
Việc bài phản biện gốc cho rằng “đạo lý này không có gì mới” là một cách phủ định không công bằng những trải nghiệm sống đã được văn chương hóa. Sức mạnh của truyện không nằm ở “phát hiện lý luận mới”, mà ở cách dẫn dắt một số phận không ai thèm để ý trở thành biểu tượng của sự chịu đựng, nhân hậu, không oán thù.
Những câu hỏi ấy cho thấy người viết đã ngộ nhận bản chất của cái gọi là “tư tưởng lớn trong văn học”. Chủ đề lớn của văn chương không bao giờ mới, điều khiến chúng sống còn là ngữ điệu kể lại, cấu trúc tổ chức, và tầng nghĩa biểu tượng.
Lối kể chuyện gợi nhắc đến Nguyễn Ngọc Tư không đồng nghĩa với “bắt chước” hay “phiên bản lỗi”
Tác giả có thể bị ảnh hưởng phong cách, nhưng Trăm Ngàn là một thực thể thẩm mỹ độc lập. Trong lịch sử văn chương, mọi thế hệ đều có ảnh hưởng từ trước, vấn đề là ai kể được câu chuyện của chính mình. Truyện này kể được, bằng sự điềm tĩnh, bằng giọng lục bình trôi không oán trách, và đó là điểm giá trị.
Đi tìm mẹ, đi tìm quê, đi tìm cội nguồn, là chủ đề đã có từ Odyssey đến Nỗi buồn chiến tranh. Nhưng mỗi thời đại kể lại đều mang một tâm thế mới. Trăm Ngàn không làm mới bằng chiêu trò, mà làm mới bằng một giọng kể dịu dàng, không oán trách, không hằn học, đó là thứ văn chương Việt hôm nay đang thiếu: sự tha thứ từ những kẻ bị chối bỏ.
Bài viết trên FB của Hà Thanh Vân có phần cực đoan trước các hiện tượng văn học miền Tây được viết trong những năm gần đây, nhưng đã mắc một số lỗi nghiêm trọng trong phê bình:
- Lỗi đọc văn như đọc biên bản hành chính: đòi hỏi tính chính xác địa, chính trị, lịch sử như thể đọc văn bản tư pháp.
- Lỗi duy danh/duy phương ngữ: xem mọi sự lệch chuẩn với ngôn ngữ Nam Bộ “nguyên bản” là sai, là phá vỡ bản sắc.
- Lỗi phủ định giá trị từ thiên kiến văn hóa học: đánh giá thấp truyện khi không đạt chuẩn “tỉnh táo, lý trí” của người viết phê bình, mà quên rằng văn học miền Tây luôn chất chứa nỗi buồn, khát vọng và những bi kịch lặng thầm.
Người viết bài không đưa ra được một mô hình lý thuyết nào để đọc Trăm Ngàn. Không có khung phê bình, không phân tích kết cấu, không giải mã biểu tượng, không bàn thi pháp. Thay vào đó là cay cú, rút tỉa tiểu tiết, ném ra cảm thán và giễu nhại.
Phê bình như thế không tạo ra đối thoại học thuật, không khai mở hiểu biết, và càng không công bằng với tác phẩm. Đó là dạng phê bình đứng về phía “chính tả của địa phương” để đả kích những giọng văn pha trộn, vượt rào, trong khi văn học hiện đại đang đi về hướng “đứt gãy bản sắc, tái cấu trúc căn tính, pha tạp giọng điệu”.
Mời đọc: Về một truyện ngắn vừa đoạt giải Nhì của báo Văn nghệ
Mời đọc: Trăm Ngàn - Truyện ngắn dự thi của Ngô Tú Ngân
Mời nghe "Trăm Ngàn" - Truyện ngắn dự thi của Ngô Tú Ngân