TIN TỨC
icon bar

Ngô Tú Ngân: “Văn chương đã chữa lành cho tôi”

Người đăng: nguyenhung
Ngày đăng: 2025-08-02 22:27:10
mail facebook google pos stwis
62 lượt xem

Xinh đẹp, khả ái và viết văn... với “sự tự do tuyệt đối trong thế giới con chữ của mình”, Ngô Tú Ngân đang là tâm điểm chú ý sau “Trăm Ngàn” – truyện ngắn đoạt giải nhưng cũng đoạt luôn những cơn bão tranh luận trên các văn đàn trực tuyếncool.

Kẻ bảo “xứng tầm”, người lại nói “chưa tới”; thậm chí có người chê truyện như món lẩu thập cẩm, có người còn nghi ngờ... ban giám khảo cuộc thi. Nhưng trong vòng xoáy dư luận ấy, tác giả trẻ trung với nụ cười luôn “bình tĩnh sống” đã chọn một cách đáp lại: kể chuyện mình, kể thật.

Trong cuộc trò chuyện dưới đây, Ngô Tú Ngân không ngần ngại chia sẻ những uẩn khúc đời tư phía sau câu chữ, hành trình đến với văn chương, và lý do khiến chị nói: “Văn chương đã chữa lành cho tôi”.

Bài mượn từ Văn nghệ Online, bạn đọc có thể click vào icon “Văn nghệ’ dưới đây để truy cập văn bản gốc.

HÀ CHI - Nguồn: 

Ngô Tú Ngân xuất hiện trên văn đàn không lâu và được biết tới với những truyện ngắn khác biệt. Chị là luật sư làm việc trong lĩnh vực tài chính trong nhiều năm, là một cây bút chính luận quen thuộc trên mục Góc Nhìn Báo Vnexpress.Trước khi đoạt giải Nhì cuộc thi Truyện ngắn Báo Văn nghệ, Ngô Tú Ngân đã viết văn như một cách xoa dịu tâm hồn. Với chị, việc cặm cụi viết mỗi ngày trong thế giới của riêng mình chính là một cách “nghỉ ngơi và thỏa sức rong chơi bay lượn, để sự sáng tạo trôi chảy tự nhiên cùng cảm xúc”.

Truyện ngắn Trăm Ngàn đã mang đến cho chị giải Nhì cuộc thi Truyện ngắn Báo Văn nghệ, nhưng lại là giải cao nhất vì không có giải Nhất. Cảm xúc đầu tiên của chị khi nghe kết quả là gì?

Cảm xúc đầu tiên khi tôi nghe kết quả chính là sự vui mừng. Tôi rất vui vì tác phẩm của mình đã được đánh giá cao, nó giúp tôi có thêm sự tự tin trên con đường viết lách sắp tới.

Dù biết rằng năng lực của bản thân và giá trị của tác phẩm là thứ mà bản thân tác giả phải tự mình có niềm tin mạnh mẽ về nó nhưng nếu điều đó còn được công nhận thông qua một cuộc thi quy mô lớn, chuyên nghiệp, qua nhiều vòng chấm điểm và được đánh giá cao bởi ban giám khảo là những nhà văn kỳ cựu của nền văn học nước nhà, thì đó chính là niềm vui và sự khích lệ rất lớn dành cho tôi.

Chị có từng kỳ vọng sẽ đoạt giải không?

Khi đến với một cuộc thi mà nói rằng mình không kỳ vọng về việc đoạt giải thì đó là một câu nói không thành thật với chính mình. Nhưng nếu hỏi tôi mục đích của việc tôi viết là vì giải thưởng đúng không thì tôi sẽ trả lời là không. Tôi cặm cụi rất lâu trong thế giới viết mà tôi đã tạo ra cho chính mình, nơi mà không có bất cứ giới hạn, quy tắc nào tôi phải tuân theo, tôi bước vào thế giới đó để được nghỉ ngơi và thỏa sức rong chơi bay lượn, để sự sáng tạo trôi chảy một cách tự nhiên cùng cảm xúc của mình. Ai đó nói nghệ thuật có thể chữa lành, tôi không tin cho đến khi tôi bắt đầu viết, mỗi ngày mỗi ngày, đến một lúc nhìn lại, tôi thấy tâm hồn mình được xoa dịu lạ kỳ - điều này có ý nghĩa lớn hơn nhiều nếu so sánh với một giải thưởng cho nên tôi chọn viết như để chữa lành cho đứa trẻ bên trong mình hơn là vì giải thưởng.

Chị có nghĩ rằng cuộc thi văn học, với quy mô lớn như của Báo Văn nghệ, còn giữ được vai trò phát hiện và nâng đỡ người viết như thời “vàng son” không? Viết để đi thi khác gì với viết thường nhật? Trong quá trình sáng tác Trăm Ngàn, chị có cảm giác đang viết để được chấm điểm, hay vẫn như mọi khi: viết để sống sót và chữa lành?

Tôi nghĩ điều này phụ thuộc vào việc chúng ta định nghĩa từ “vàng son” và sự tự tin của Quý Báo vào năng lực và uy tín trong việc tạo ra một cuộc thi quy mô lớn và chuyện nghiệp. Có thể tôi còn quá trẻ để hiểu hết về thời “vàng son” của Quý Báo nhưng cuộc thi vừa qua vẫn là một sự kiện lớn được hầu hết văn giới, kể cả người đã có tên tuổi hoặc những người vừa bước chân vào con đường văn chương quan tâm. Vì sao? Vì họ biết qua cuộc thi này, những nhân tố mới sẽ được tìm thấy, sẽ được nâng đỡ để bén rễ đâm chồi trong tương lai cho nên các thông tin về cuộc thi luôn là đề tài được văn giới thảo luận, cập nhật.

Trong tương lai, giữa bối cảnh nhiều biến đổi nhanh chóng, tôi tin nếu chúng ta tâm huyết, học hỏi, đổi mới và có định nghĩa “vàng son” phù hợp với mỗi thời kỳ phát triển thì Quý Báo sẽ vẫn là ngọn cờ đầu trong việc tìm ra, làm nên những tên tuổi văn chương và thúc đẩy sự phát triển của nền văn học Việt Nam.

Tôi viết Trăm Ngàn trước khi cuộc thi được công bố. Như đã chia sẻ, tôi viết bất cứ khi nào có cảm xúc chứ nếu ai đó ra đề và cho tôi deadline thì tôi sẽ cứng đờ như bị đóng băng và không viết được chữ nào.

Tôi thích sự tự do tuyệt đối trong thế giới con chữ của mình, bao gồm cả việc khi nào tôi viết và tôi muốn viết gì, viết như thế nào. Tôi không ép mình phải ra kết quả, khi cảm xúc đến, tôi viết ra và qua đó tôi có được tác phẩm của mình. Rồi khi cơ duyên đến, tôi có thể gửi tác phẩm dự thi hoặc xuất bản. Trăm Ngàn cũng vậy, tôi hoàn thành tác phẩm, không lâu sau tôi biết được thông tin cuộc thi nên đã gửi đi.

Chị có nhớ khoảnh khắc đầu tiên nào khiến chị biết rằng mình sẽ viết, không phải để công bố mà để kể lại điều gì đó không nói ra được?

Tôi tự hiểu mình là người có rất nhiều cảm xúc rất phức tạp và với tính cách không hay chia sẻ và cũng không có nhiều người làm cho tôi muốn chia sẻ bộc bạch nên tôi hay tự viết ra những ý nghĩ, cảm xúc trong lòng. Không hẳn là nhật ký nhưng tôi có một cuốn sổ để ghi những thứ như vậy từ năm học cấp ba. Sau này có điện thoại thông minh, mọi chuyện lại thêm dễ dàng, cần gì, cứ mở note ra và viết xuống. Riết nó trở thành một thói quen, tôi mất dần nhu cầu bộc bạch thông qua lời nói, tôi quen diễn đạt mình qua chữ nghĩa nhiều hơn.

Những đoạn cao trào nhất của truyện Trăm Ngàn được tôi viết trên một chuyến bay dài từ London về TP.HCM, với tôi chữ nghĩa có lúc chợt đến rồi tuôn trào, những lúc như thế tôi tin người ta có thể viết một cách xuất thần. Người ta có thể viết mỗi ngày nhưng viết xuất thần thì không phải ngày nào cũng có thể đạt đến. Cảm giác viết xong đoạn cao trào đó, tôi vẫn còn nhớ đến giờ, khó có thể diễn đạt bằng lời, nó giống như một định mệnh của mình và tác phẩm, sẽ làm mình nhớ về nó nhiều hơn rồi tự tin bước tiếp trên đại lộ văn chương dài rộng không điểm dừng hay giới hạn nào.

Viết về phận người thấp bé, bị gạt ra lề xã hội như Trăm Ngàn không hề dễ, vì dễ rơi vào mô típ thương vay. Làm sao để chị viết về Trăm Ngàn mà vẫn giữ được tiết chế, tĩnh và bi? Những người phụ nữ trong truyện của chị hình như thường không nói nhiều, nhưng vẫn cứ in vào người đọc rất rõ. Có phải chị đã học được cách kể chuyện từ sự im lặng của họ?

Nhân vật của tôi là một mảnh đời thật và cũng có thể là đại diện cho rất nhiều phần đời khác, họ thường hay có một nỗi khổ nào đó và họ phản ứng với cái khổ đó theo tôi là không giống lẽ thường, có thể gọi là bất thường hoặc phi thường. Tôi thỉnh thoảng thấy mình thấp thoáng trong những nhân vật đó, có thể vì thế mà tôi đồng cảm, tôi muốn hiểu, muốn thương và muốn được chia sẻ với những nỗi niềm khó cất trọn lời tròn tiếng giữa biển đời náo động mà khó tìm thấy cho mình một nơi gieo cho hạnh phúc cắm rễ, đâm chồi.

Ai đó nói, con người chúng ta thì thường nhớ và ám ảnh bởi những nỗi khổ hơn là niềm vui. Tôi nghĩ điều đó là đúng nhưng không chỉ có nỗi khổ mà còn cả cái cách người ta chịu khổ cũng ám ảnh không kém. Nên tôi thường bị ám ảnh bởi những con người, những số phận đan xen, những câu chuyện mà cuối cùng không ai trọn vẹn. Những câu chuyện như vậy hay ở lại rất sâu trong lòng tôi, rồi cứ thế lớn dần, cồn cào và trồi ra dưới dáng hình những câu chữ.

Trăm Ngàn đặt câu hỏi dai dẳng: nếu một người bị từ chối từ cội nguồn, họ còn có thể sống đúng nghĩa là người không? Theo chị, gia đình và ký ức có là một loại quyền lực? Tôi thấy văn của chị được viết bằng giọng của một người chứng kiến, không lên án, không cứu rỗi. Chị có bao giờ sợ người đọc sẽ nghĩ chị “hiền”? Hay chị chọn “hiền” như một kiểu đối kháng?

Tôi nghĩ mình là một người kể chuyện, câu chuyện hay dở phụ thuộc vào chính nó chứ không hay dở theo ghét thương của người kể. Truyện không cần khóc mướn, thương vay. Tôi chọn làm một người kể truyện tĩnh lặng để cho người đọc của tôi có thể tự nhìn thấu suốt bằng lăng kính của mình.

Tôi không chọn hiền và cũng chẳng chọn đối kháng, không chỉ riêng những người phụ nữ trong Lời nguyền gái miền Tây, Mị Châu hay Trăm Ngàn mà hầu hết nhân vật của tôi, nỗi buồn của họ là thứ nỗi buồn đã được chấp nhận. Sự chấp nhận để tìm lối ra chứ không phải chấp nhận rồi chìm đắm, buông xuôi.

Khi một mũi tên của đời đã găm trúng vào mình, mình đau đớn một nhưng mình tức tối, mình quay cuồng tìm xem tại sao mũi tên lại găm trúng vào mình, đây chính là mũi tên thứ hai. Mà mũi tên thứ hai này thường là mũi tên chí mạng vì mình cứ mãi lo nghĩ về nó mà quên chữa trị vết thương thứ nhất. Nên tôi nghĩ hãy cho phép nhân vật của mình bị bắn một mũi tên, rồi họ chấp nhận, rồi chữa trị chứ không khăng khăng rằng đời không được bắn bất kỳ mũi tên nào để rồi khi trúng tên, họ tự làm khổ mình bằng mũi tên thứ hai của chính họ.

Nên nhân vật của tôi, họ mang một nỗi niềm đã được chấp nhận để rồi tiến lên. Như Trăm Ngàn, một cá nhân bị chối bỏ nhưng đã sống như một con người thiện lương, vẫn giữ được tấm lòng thuở ban sơ chưa bị nhuốm bẩn bởi gạo dầu giấm muối.

Tôi luôn nghĩ con người là một thực thể như bao nhiêu thực thể khác, được sinh ra, định hình với những đặc điểm như vậy thì dù có được công nhận cội nguồn hay không thì họ vẫn không mất đi bản chất là một con người.

Tuy nhiên về khía cạnh tâm lý tình cảm, khi bị chối bỏ, con người sẽ mang mặc cảm về một sự bỏ rơi, như một điều thiếu khuyết không bao giờ tròn trịa được. Cho nên Trăm Ngàn, lặn lội núi sông, chìm nổi giữa đời vẫn không nguôi khao khát một sự thuộc về, một sự công nhận, dù chỉ của từ một người mà thôi là đã đủ để mãn nguyện xuôi tay. Cho nên con người được sinh ra không bằng lựa chọn, có được công nhận hay không cũng nằm ngoài sự kiểm soát nhưng có tiếp tục sống như một con người đúng nghĩa hay không đó là lựa chọn mà mỗi người phải nỗ lực chọn lấy cho mình. Và Trăm Ngàn đã làm được điều đó, trong tận cùng nỗi khổ, lựa chọn kiên cường, bền bỉ với thiện lương chẳng những thắp sáng cả cuộc đời mình mà còn thắp sáng cho cả một đoàn hát, nơi những con người đã bị đời vùi dập bằng những vết thương chí mạng. Nhưng rồi, lựa chọn của họ là ở cạnh nhau, nương tựa, chữa lành cho nhau, chính họ đã viết lại cuộc đời mình và viết lại định nghĩa về cuộc đời mà họ từng cho là xấu xí. Số phận mình sẽ chỉ do một mình mình viết nên.

Tác phẩm của chị thấm đẫm không khí miền Tây nhưng không phải kiểu “hương đồng gió nội”, mà là nỗi niềm của những kẻ thất thổ. Trong chị, miền Tây là gì? Là một địa dư hay là định mệnh? Lời thoại trong văn chị có chút âm hưởng của chất sân khấu, như cải lương. Cái sân khấu ấy vừa giả, vừa thật, vừa đời, vừa mộng. Có phải cải lương đã định hình văn phong chị?

Với tôi miền Tây là định mệnh. Tôi sinh ra và lớn lên ở miền Tây, có một tuổi thơ vừa lấm lem bùn đất ngày mưa đi bắt cua đồng, vừa tắm đầy nắng gió những buổi chiều thả diều nơi đồng căng nắng gió, lại vừa trải nghiệm những ngày còn thiếu thốn nhưng cũng nhờ đó tôi biết được tình nghĩa của người miền Tây có thể sâu rộng đến chừng nào.

Tôi lớn lên dưới sự chở che hào phóng của những dòng sông nặng phù sa, giàu tôm cá, lại được ôm ấp dưỡng nuôi bằng văn hóa miền Tây đầy âm điệu ca cổ, cải lương với những nhịp điệu mượt mà, bi ai nhưng giàu triết lý.

Tôi có rất nhiều kỷ niệm với cải lương. Từ nhỏ tôi đã được bà ngoại dắt sang nhà hàng xóm xem cải lương. Hồi ấy, cái tivi trắng đen nhỏ xíu nhưng đối với tôi là cả thế giới ngôn từ và giai điệu mà tôi rất say mê, mỗi lần xem là tôi có rất nhiều cảm xúc. Chất thơ, chất kịch, âm điệu, ca từ, câu chuyện, tất cả đều được giao hòa trong một tuồng cải lương. Nếu nói loại hình nghệ thuật nào là loại hình đầu tiên tôi biết đến và học được, đó chính là cải lương.

Sau này lớn lên, mỗi lần về nhà, tôi và bà ngoại vẫn hay cùng nhau coi cải lương, coi hết tuồng này đến tuồng khác rồi cùng khóc cùng cười với nhân vật. Đó cũng là một trong những kỷ niệm rất sâu sắc của tôi và bà, một người đã sống cả cuộc đời yêu thương nhân nghĩa, là người đã truyền cảm hứng và tình yêu của tôi dành cho miền Tây và cả văn chương.

Nếu đọc truyện tôi, người ta sẽ thấy tôi hay nói về những buổi trưa nắng, làng xóm yên tĩnh, chỉ nghe văng vẳng tiếng hát ca cổ hoặc cải lương được phát ra từ cái đài của nhà ai đó. Đó chính là một ký ức dai dẳng đậm đà mà sinh động đến nỗi tôi mỗi khi nhớ về là có thể cảm nhận được hơi thở của buổi trưa tràn nắng ấy với tiếng ca cổ vừa bi ai vừa mùi mẫn. Tôi thường chìm vào giấc ngủ trưa với những giai điệu như vậy. Có thể vì thế nó trở thành một phần của tâm trí tôi, tôi học cách diễn đạt mình thông qua đó.

Và như thế, hơn vài mươi năm của đời người sống trong lòng miền Tây và được dưỡng nuôi bởi đất, người và văn hóa ở đây, miền Tây là một phần trong tôi mà ở đó có cả ngọt ngào những ký ức tuổi thơ, tình thương, gia đình, thầy cô, bạn bè và cả những mất mát mang tính sinh mệnh - đã trở thành những vết thương không bao giờ nguôi và tình yêu không thể nói hết thành lời, chính vì nỗi cồn cào và thương nhớ đó, khi tôi viết, miền Tây cứ tự nhiên chảy trôi theo từng chữ nghĩa, sự tự nhiên này giống như ăn cơm uống nước, như một phần máu thịt để rồi một ngày tôi nhận ra miền Tây đã trở thành định mệnh và cả sinh mệnh văn chương của tôi dành cho những con người, những thân phận, những câu chuyện mà tôi muốn được cất lên, thổ lộ để ở đâu đó vào một chốc nào, có ai đó, cảm thấy được an ủi, được sẻ chia, được rơi nước mắt về con người và đất miền Tây, để xứ này được nhìn thấy, thấu hiểu, để trở thành một biểu tượng văn học và cùng văn học nhảy múa trong vũ điệu hài hòa, sống động riêng có của miền đất này.


Hai tác giả đoạt giải nhì Cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ là Vũ Ngọc Thư (thứ hai từ trái sang) và Ngô Tú Ngân (thứ ba từ trái sang), nhận chứng nhận và hoa chúc mừng từ Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều (bìa trái) và Chủ tịch hội đồng giám khảo Nguyễn Bình Phương (bìa phải). Ảnh: BTC

Tôi thấy chị ít khi dùng từ “giải thoát”, nhưng nhân vật của chị lại thường chết trong sự an tĩnh. Có phải cái chết trong văn chị là một kiểu tự do cuối cùng?

Tôi nghĩ cái chết cũng bình thường như sự sống, đến lúc phải diễn ra thì nó diễn ra thôi. Tôi không bắt các nhân vật của mình phải chết nhưng thực tế nó phải là như thế thì tôi cũng để nó được diễn ra đúng như nó là. Tuy nhiên, là một con người có nhiều mơ mộng, tôi vẫn muốn có một phép màu nào đó cho họ nên cả Mị Châu hay Trăm Ngàn, dù là cái chết nhưng tận cùng vẫn là một cái kết tròn với ánh sáng của lòng người, của tình yêu thương, đó chính là một loại phép màu mà con người có thể tạo ra được.

Các truyện của chị thường không có cao trào, mà cứ chảy như sông. Chị có bao giờ thử viết truyện đảo chiều, dùng các cấu trúc phá cách, hoặc tự vấn mình xem liệu có thể viết như một người khác không?

Viết đối với tôi là một thế giới tự do tuyệt đối, một cõi đời mà mọi điều có thể được diễn đạt hoàn toàn bằng cách tôi muốn. Trên sự tự do đó, tôi cứ thế mà rong chơi, khám phá nên tôi cũng chưa từng nghĩ mình nên viết thế này hay mình nên viết thế kia. Một cuộc đời bình thường đã quá nhiều điều khuôn thước, tôi muốn thế giới văn chương của mình có thể tự do vượt qua mọi giới hạn và rào cản của cuộc đời này.

Tôi đọc truyện chị như đọc một bản điều tra xã hội học mà rất mềm. Chị có bao giờ nghĩ mình đang “viết thay” cho những người không biết viết?

Với tính cách của tôi, hễ có việc gì không vừa ý là tôi sẽ giãy nảy lên ngay. Tuy nhiên, qua những câu chuyện mẹ tôi kể và những chuyện tôi nhìn thấy, trong xã hội có nhiều người, họ dường như chưa bao giờ nghĩ đến việc giãy nảy hay đòi một lẽ công bằng cho mình, họ cứ sống lặng lẽ như vậy. Tôi ban đầu rất ngạc nhiên vì tại sao lại có người như thế nhỉ, sao họ không nhảy đỏng lên, chuyện quá đáng như thế cơ mà. Nhưng càng chứng kiến người người như vậy, tôi nghĩ có thể do môi trường sống và quá trình sống, họ không được dạy đứng lên vì chính mình hoặc họ đã được dạy phải cam chịu. Tôi cảm thấy có chút bất công nên muốn viết ra để đâu đó có thể họ sẽ đọc được, sẽ cảm thấy được an ủi hoặc giả như ai đó đọc được, họ sẽ hiểu hơn về một cuộc sống vừa rộng lớn mà lại chật chội đến khôn cùng này.

Sau cuộc thi, điều gì khiến chị suy nghĩ nhiều hơn: khen, chê, hay sự im lặng? Nếu có một người trẻ hỏi chị “Em cũng muốn gửi truyện đi thi. Có nên không?”, chị sẽ trả lời sao - bằng kinh nghiệm của một người vừa đoạt giải cao, nhưng cũng là người đã lặng lẽ viết rất lâu?

Tôi nghĩ là cả ba (cười). Sau cuộc thi tôi nhận được nhiều ý kiến về tác phẩm của mình nhưng tôi hiểu rằng, văn chương nói riêng và nghệ thuật nói chung luôn là một phạm trù có nhiều tranh cãi vì nó là cảm xúc, không thể đo đếm được như toán học cho nên tôi ghi nhận tất cả ý kiến với thái độ khiêm nhường, cầu thị để xem xét học hỏi.

Còn nếu một bạn trẻ nghiêm túc sáng tạo, trau chuốt tỉ mỉ cho tác phẩm của mình, cớ gì lại không tham gia một cuộc thi uy tín, chuyên nghiệp như thế này, để thông qua đó hiểu được tác phẩm của mình được giới chuyên môn đánh giá như thế nào, tác phẩm được đón nhận ra sao để có định hướng xem xét, cải thiện, thay đổi hay tiếp tục với con đường đang đi nếu tác phẩm được đón nhận và đánh giá cao.

Ngoài ra, tôi cũng sẽ nói thêm, cuộc thi sẽ có người được giải, người không nhưng “thắng không kiêu, bại không nản”, tất cả đều là một hành trình để thể hiện bản sắc cá nhân thông qua thế giới chữ nghĩa chữa lành đầy mầu nhiệm này.

Cảm ơn chị về cuộc trò chuyện này, và một lần nữa chúc mừng chị đã đoạt giải Nhì của cuộc thi Truyện ngắn Báo Văn nghệ lần này.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Ngòi bút thi sĩ giữ lửa nghề báo: Một trăm năm mãi xanh
Bài đăng báo Văn nghệ số ra ngày 21 tháng 6 năm 2025
Xem thêm
Một thế kỷ đồng hành kiên định và khát vọng đổi mới
Bài đăng Văn nghệ Công an, số ra ngày 12/6/2025
Xem thêm
Khi phụ nữ làm thơ và làm báo bằng một trái tim
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 6/2025
Xem thêm
Không thể đánh cược tương lai vào một giấc mơ chưa có nền móng
Dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam đang được các cơ quan truyền thông “lề phải” quảng bá như một bước ngoặt mang tầm thế kỷ, là động lực phát triển, là biểu tượng hiện đại hóa.
Xem thêm
50 năm nhìn lại – Hành trình từ quá khứ đến tương lai
Bài đăng báo Văn nghệ Công an, số 761 (ngày 29/5/2025)
Xem thêm
Chọn nhà đầu tư ĐSCT: Nhìn từ hai đề xuất của VinSpeed và THACO
Ưu tiên minh bạch, lựa chọn người đồng hành chứ không chọn “người xin ưu tiên”
Xem thêm
Khi nước Pháp nắm tay chúng ta bằng sự tử tế và trí tuệ
Gửi đến Emmanuel và Brigitte Macron – một lời cảm phục. Gửi đến những ai gieo rắc định kiến và xúc phạm tình yêu – một lời cảnh tỉnh. Và gửi đến bạn đọc – những ai còn tin vào sự tử tế, xin hãy cùng tôi giữ gìn.
Xem thêm
Sứ mệnh của văn nghệ sỹ trước kỷ nguyên mới
Bài đăng trên Tạp chí Sông Lam, số 5/2025
Xem thêm
Một dòng chảy lớn mang dấu ấn của Thành phố anh hùng
Bài đăng Thời báo Văn học Nghệ thuật, số 20 ngày 15/5/2025
Xem thêm
Một chỗ đứng cho văn chương - Tiếng nói nhà văn
Giữ được ngọn lửa văn chương – cũng là giữ lấy linh hồn của dân tộc.
Xem thêm
Nhớ những ngày quân ngũ
Nguồn: Tạp chí Sông Lam
Xem thêm
Nhà thơ Nguyễn Văn Hùng: Nhớ một người thơ tử tế vừa ra đi
Tôi đánh giá Mẹ vào thơ là một bài thật hay trong chùm thơ vào loại hay của Nguyễn Duy Năng, có thể đàng hoàng vượt khỏi lũy tre làng đất Nghệ, để đến với bạn yêu thơ cả nước!
Xem thêm
Chú Năng... | Hồi ức của Thường Kha
Chú Năng ơi, tâm hồn trong sáng của chú – dù nói câu gì cũng chẳng có vẩn đục nào. Chú nói – chỉ để góp thêm tiếng cười, để nối dài những bữa rượu vui…
Xem thêm
Nhà văn Khuất Quang Thụy những quầng sáng trong lam lũ, nhọc nhằn
Bài của nhà văn Sương Nguyệt Minh trên Văn nghệ Online.
Xem thêm
Nhà phê bình Vũ Nho: Tuổi bảy mươi vẫn ham đi tìm cái mới lạ
Những phát hiện mới của Vũ Nho trong công trình “Hồ Xuân Hương Thơ và đời”.
Xem thêm