TIN TỨC
icon bar

Phạm Tiến Duật - Người đi lạc trong hòa bình

Người đăng: nguyenhung
Ngày đăng: 2025-11-06 07:26:13
mail facebook google pos stwis
88 lượt xem

Có một thời, thơ được bắn lên trận địa trong những viên đạn súng cối như một thứ 'vũ khí' tinh thần tối thượng. Và người mang đến thứ vũ khí ấy cho những người lính - nhà thơ Phạm Tiến Duật - đã sống một cuộc đời phi thường và cũng đầy nghịch lý. Cánh buồm thao thức xin phép được đăng tải và mời độc giả cùng đọc bài viết cảm động “Phạm Tiến Duật - Người đi lạc trong hòa bình” của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, để thấy rõ hơn hào quang và nỗi cô đơn của một tượng đài thơ ca, một con người “cả đời chỉ biết có bầu trời".
 


Chân dung Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Nhà thơ Phạm Tiến Duật.


Nhà thơ NGUYỄN QUANG THIỀU

Đã nhiều lần tôi nói rằng: nếu chọn một nhà văn Việt Nam để dựng tượng trên đường mòn Hồ Chí Minh thì tôi chọn nhà thơ Phạm Tiến Duật. Mà không chỉ mình tôi chọn ông. Rất nhiều người được hỏi đều chọn ông. Suốt mười mấy năm chiến tranh, ông đã đi dọc con đường mòn ấy, đi và làm thơ trong bom đạn, trong máu chảy. Hình ảnh ấy luôn luôn ám ảnh tôi. Và tôi không làm sao lý giải đầy đủ được con đường của thi ca trong con đường bi tráng ấy. Nhà thơ Mai Văn Phấn đã nói với tôi: Phạm Tiến Duật là người đã mang đến cho thi ca trong những năm tháng chiến tranh một đời sống mới cả về thi pháp lẫn nội dung. Cũng không còn có một nhà thơ nào như ông được những người lính nói: “Chúng tôi tựa vào những câu thơ của Phạm Tiến Duật để đi vào mặt trận”. Và như thế, ông đã hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh của một người lính và của một nhà thơ trong chiến tranh.

Tôi nhớ mãi một câu chuyện về những người lính giữ chốt trên một quả đồi ven đường mòn Hồ Chí Minh trong chiến tranh. Họ bị bao vây. Những đơn vị ở bên ngoài không thể nào tìm cách tiếp cận được họ ngoài hệ thống liên lạc bằng điện đài. Khi cấp trên hỏi họ cần gì thì họ trả lời: “Chúng tôi cần thơ Phạm Tiến Duật”. Những người lính trên điểm chốt ấy biết rằng có thể tất cả họ sẽ hy sinh. Cái cần nhất lúc đó đối với họ không phải là thức ăn, nước uống. Cái cần nhất đối với họ trước cái chết là một bài ca của sự sống vang lên đôi lúc như một bản thánh kinh. Một bộ phận được phân công chuyển thơ của Phạm Tiến Duật lên điểm chốt đó. Bộ phận này đã tháo thuốc nổ trong một đầu đạn súng cối và cho thơ Phạm Tiến Duật vào đó rồi bắn lên chốt. Đây là một câu chuyện có thật. Nhưng khi được kể lại, nó đã trở thành huyền thoại. Câu chuyện đó là một hiện thực huyền thoại.

Đấy là một hiện thực chứa đựng sự kỳ diệu của thi ca và đời sống tinh thần của con người ở bất cứ nơi nào trên thế gian này. Nhưng bây giờ, có ai còn xúc động đến lạnh người khi nghe câu chuyện này như tôi đã từng trước kia không? Bây giờ thi ca nhiều lúc không còn mảy may bóng dáng trong đời sống của quá nhiều người. Tất cả những điều kỳ diệu ấy như đã trở thành cổ tích tự lâu rồi. Và ngay chính đối với tác giả sinh ra những câu thơ ấy, tôi cứ nghĩ rằng: có những lần tỉnh rượu giữa khuya khoắt đã ngờ vực chính mình và tự hỏi: có thật là mình đã đi qua những năm tháng như vậy không?

Trong những năm ở đường mòn Hồ Chí Minh với quá nhiều thiếu thốn và nhiều lúc đói như điên dại, nhưng nhà thơ Phạm Tiến Duật đã được chu cấp đầy đủ như một vị tướng. Người nhìn ra một trong những tài sản quý báu nhất và có sức mạnh nhất của thi ca khi con người đứng giữa gianh giới của sự sống và cái chết lại không phải là một nhà nghiên cứu hay là một nhà thơ mà lại là một người lính - ông Đồng Sỹ Nguyên, Tư lệnh đường mòn Hồ Chí Minh và là Uỷ viên Bộ Chính Trị sau này. Nhưng bây giờ, nhà thơ không còn được coi trọng và thần thánh hoá như những năm tháng trước kia. Nhiều lúc tôi cứ hỏi tại sao bây giờ những vẻ đẹp của ngôn ngữ và giá trị nhân văn chứa đựng trong ngôn ngữ ấy lại không còn bao ý nghĩa trong đời sống con người nữa. Có rất nhiều lý do, nhưng có một lý do mà tôi nhận ra là những người mang danh nhà thơ đã không sống với sự chân thành, lòng đắm mê và dâng hiến như thuở trước đối với cuộc sống và đối với thơ ca.

Phạm Tiến Duật trở về từ chiến tranh. Ông ở trong một căn phòng tồi tàn ở ngõ Yên Thế. Một căn phòng mà lối đi qua căn phòng đó là lối đi để đến một cái nhà vệ sinh tồi tàn của mấy hộ cùng ở trong ngôi nhà đó. Đấy là ngôi nhà của gia đình vợ ông. Căn phòng vợ chồng ông và hai cậu con trai ở ngõ Yên Thế. Tôi đã từng đến ngôi nhà ấy và dù cho lãng mạn đến thế nào tôi vẫn phải tự hỏi: tại sao ông có thể sống ở một nơi chật chội và thiếu thốn mọi thứ như thế. Mãi đến sau này, tôi mới có thể tìm được một lý do, dù rằng lý do đó cũng thật mơ hồ để lý giải vì sao một nhà thơ danh tiếng lẫy lừng như ông vẫn sống trong một điều kiện quá khó khăn sau khi chiến tranh đã kết thúc quá lâu. Tôi từng chứng kiến những người yêu quí thơ ông mang đến cho gia đình ông từng bao tải mùn cưa để nấu nướng. Trong khi đó, rất nhiều nhà thơ khác đã xây dựng lên một cơ ngơi đàng hoàng và chăm chút cái tổ ấm của họ hơn cả chăm chút thơ ca. Còn Phạm Tiến Duật vẫn trôi lang thang với thơ ca như một đám mây. Đám mây ấy chỉ biết có bầu trời. Đám mây ấy chỉ biết nó đang trôi trong tự do vô tận nhiều lúc như một bản năng khó kìm giữ. Bây giờ nhiều người vẫn nhắc lại hồi đó, tổ chức đã chuẩn bị đặt ông vào một vị trí rất cao: Bí thư thứ nhất Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Nếu ông chỉ cần nghĩ đến điều đó bằng 50% của các nhà văn nhà thơ khác thì ông có thể ít nhất đã là một Bộ trưởng. Nhưng thơ ca và bản tính tự do của một thi sỹ đã kéo ông đi như gió cuốn đám mây trên bầu trời kia. Bản tính của một thi sỹ đích thực đã làm ông quên đi tiền bạc, quên đi nhà cửa, quên đi quyền chức và nhiều lúc quên đi cả vợ con mình.

Tôi đã từng nghe một số nhà thơ nói ông khôn. Nhưng than ôi, nếu khôn thì vợ con ông đã không phải sống trong một căn hộ 26 mét vuông trên tầng năm của một khu chung cư tồi tệ nhất Hà Nội. Nếu khôn thì ông đã không nhận cái chức Tổng biên tập của Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam. Một tạp chí chẳng mấy ai đọc và chẳng biết làm thế nào để có thêm 3000 đồng ăn trưa. Nếu khôn thì ông đã không bỏ đi chơi theo bạn bè quên cả sinh hoạt Đảng để ông không thể trở thành Đảng viên chính thức được.

Tôi trở thành một trong những người thân của gia đình nhà thơ Phạm Tiến Duật từ những ngày anh chị còn ở trong ngôi nhà, hay có thể gọi là căn phòng nằm trong ngõ Yên Thế, Hà Nội. Ngày ấy tôi chưa lấy vợ. Chính vì thế tôi thường xuyên đến đó. Chị Vân coi tôi như một đứa em trong nhà. Chị thường đi chợ muộn để có thể mua được thực phẩm với giá rẻ. Tôi nhớ mãi món bò kho chị nấu lúc nào cũng nhiều nước. Vì sao chị lại nấu thịt bò kho nhiều nước? Vì thịt ít nên nấu nhiều nước để ăn. Đó là những năm đầu của thập niên 1980. Đó là thời gian khó khăn nhất sau chiến tranh.

Một lần mấy người bạn rủ tôi buôn chanh từ tp.HCM ra Hà Nội. Chanh ở trong đó rất rẻ, còn Hà Nội lại quá đắt. Chúng tôi mua mấy chục kilogam chanh từ tp.HCM ra. Nhưng đến Hà Nội thì chanh bắt đầu bị vàng vỏ. Vợ chồng nhà thơ Phạm Tiến Duật thương mấy đứa em quá. Thế là hai người hì hục xếp từng quả chanh xuống gầm giường cho mát để giữ chanh khỏi nhanh bị vàng vỏ. Và chiều chiều, sau khi chị Vân đi dạy học về, nhà thơ Phạm Tiến Duật lại giục vợ trộn những quả chanh đã vàng vỏ lẫn với những quả chanh còn xanh mang ra chợ Sinh Từ gần đó bán gỡ vốn cho chúng tôi.

Cuộc sống của mọi người trong đó có tôi giờ đã quá khác xưa. Nhưng mỗi lần đi qua ngõ Yên Thế, tôi lại muốn dừng lại để hồi tưởng về những ngày xưa ấy. Tôi sẽ chẳng bao giờ lý giải cho ra ngọn ngành vì sao một nhà thơ danh tiếng đến như thế lại có thể sống trong một căn phòng như thế, và có thể ngồi lặng lẽ xếp từng quả chanh xuống gầm giường để chống vàng vỏ cho một nhà thơ trẻ.

Nhà thơ Phạm Tiến Duật, ông đã đi qua vinh quang và cay đắng, qua hạnh phúc và khổ đau. Và lúc này, hình ảnh ấn tượng nhất của tôi về ông là hình ảnh ông cùng vợ xếp cẩn thận những quả chanh đang bắt đầu vàng vỏ xuống gầm giường, và hình ảnh ông đang đọc thơ trước hàng trăm người nông dân cùng hàng trăm ngọn đèn dầu ở một vùng quê nghèo đói. Đó là hình ảnh của một nhà thơ và là hình ảnh của thi ca. Nếu không thì tôi biết nói gì lúc này!

Ngày đó phương tiện giao thông vô cùng khó. Chúng tôi phải đi bộ 6km từ bến xe về làng. Tối đó, ông đã đứng trước cửa đình nói về thơ trước hàng trăm người nông dân làng tôi. Ngày ấy làng tôi chưa có điện nên mỗi nông dân đến nghe thơ đều mang theo một ngọn đèn dầu. Tôi nhớ mãi đêm đó. Một đêm đẹp như một giấc mộng. Sáng hôm sau, Phạm Tiến Duật lại đi bộ 6km đến bến xe để trở về Hà Nội. Những người nông dân tiễn ông đến đầu làng. Và từ đó, người làng tôi coi ông là một công dân danh dự của làng.

Trong chiến tranh, con đường của ông là một con đường thẳng xuyên qua bom đạn, xuyên qua cái chết. Ông đã đi đúng con đường ấy và không hề lạc bước một ngày cho đến ngày chiến thắng. Nhưng khi hoà bình đến thì ông đã đi lạc. Nhiều lúc tôi vẫn nghĩ ông không nhận ra con đường trong hoà bình hoàn toàn khác với con đường trong chiến tranh. Và thế là nhiều nhà thơ cùng thế hệ của ông đã tìm một con đường khác còn ông lại vẫn đi trên một con đường khác. Ông mê mải đi trên con đường ấy, một con đường chỉ có trong ký ức của ông. Ông vẫn nói như hồi chiến tranh và vẫn làm thơ như hồi đó. Bởi thế mà ông từng là nhân vật trong những cuộc bàn luận trong quán bia hơi thịt chó không thiện chí của một số người thế hệ ông. Ông cứ tưởng tất cả vẫn thế. Nhưng ông có biết đâu tất cả đã đổi thay mà ông không biết. Thế là nhiều lúc ông trở lên lạc lõng trước nhiều nhà văn, nhà thơ cùng thế hệ của mình. Cũng có lúc ông như người chợt tỉnh và nhận ra rằng ông đã đi xa cái thời đại mà ông đang thở trong đó. Thế là ông vội vàng chỉnh sửa. Nhưng sự chỉnh sửa của ông để cho hợp với đương thời chỉ làm ông thêm lúng túng và vụng về. Không ít người nhìn thấy ông lúng túng và vụng về trên cái sân khấu cuộc đời này thì chê bai ông. Nhưng sự lúng túng và vụng về đó lại chứa đựng sự chân thành. Và sự chân thành ấy của ông nhiều lúc đã cản đường ông và đẩy ông ra xa nhiều nhà thơ cùng thế hệ. Nhưng ông lại để lại trong lòng ít nhất một người như tôi sự xúc động. Còn những người chê bai ông đã diễn quá giỏi trong những vai mà họ nhận được.

Một ngày ông mang cho tôi xem bệnh án với những kết quả xét nghiệm của bác sỹ với thái độ bình thản như từng cho tôi và bạn bè xem một bài thơ vừa sáng tác. Phổi ông có khối u với những cái chân như rễ của một củ hành. Và tôi hiểu đó là cái gì. Rồi sau đó ông cho tôi xem bài thơ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm viết tặng ông khi nghe tin ông mắc trọng bệnh. Ông rất xúc động vì bài thơ đó. Ông vẫn thế, vẫn đôi lúc vô tư như một cậu bé. Ông vẫn đi lạc trong trong chính thời đại mà ông đang sống. Tôi đã trò chuyện với không ít những nhà thơ của thế hệ mình. Họ vẫn luôn luôn đánh giá đúng những gì mà ông đóng góp cho thơ ca trong những năm chiến tranh.

Ông mãi mãi là nhà thơ số 1 của thời đại ấy.

Nguồn: Fanpage Nhà xuất bản Hội Nhà văn.



Rút từ "KÝ HỌA THƠ (81 chân dung văn học)", Nxb Hội Nhà văn, 2024.

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Giai điệu từ những vần thơ” – Khi âm nhạc cất tiếng từ thi ca
Tối 20/10/2025, sân khấu ngoài trời Nhà Văn hóa Thanh Niên TP. Hồ Chí Minh rực sáng trong không gian của thi ca và âm nhạc. Đó là đêm diễn đặc biệt mang tên “Giai điệu từ những vần thơ”, thuộc chuỗi chương trình “Những ngày Văn học Nghệ thuật TP.HCM”, do Sở Văn hóa và Thể thao phối hợp Hội Nhà văn TP.HCM tổ chức.
Xem thêm
Chuyện làng văn nghệ: Sáu năm Nguyễn Đức Hạnh
Một bài viết vừa dí dỏm vừa chan chứa nghĩa tình – “Sáu năm Nguyễn Đức Hạnh” của Văn Công Hùng khắc họa hình ảnh PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh – một người viết, người thầy, người bạn văn đáng quý, sống trọn với chữ, với đời và với bạn bè.
Xem thêm
Người xứ Nghệ: Nước non và bản sắc
Bộ sách Người xứ Nghệ phác họa 52 nhân vật với tinh thần nước non phải đền, khát vọng học tập, tiên phong đổi mới và phẩm chất cống hiến, khẳng định bản sắc người Nghệ.
Xem thêm
Trả lại công bằng, tôn vinh những giá trị trường tồn
Bài viết của Tô Văn Trường kêu gọi trả lại công bằng cho tác phẩm và tôn vinh những giá trị trường tồn của văn chương Việt.
Xem thêm
Vai trò của trí thức và văn nghệ sĩ trong hành trình phát triển TP.HCM
Vai trò của trí thức và văn nghệ sĩ trong hành trình phát triển TP.HCM
Xem thêm
Ngô Tú Ngân: “Văn chương đã chữa lành cho tôi”
Ngô Tú Ngân xuất hiện trên văn đàn không lâu và được biết tới với những truyện ngắn khác biệt. Chị là luật sư làm việc trong lĩnh vực tài chính trong nhiều năm, là một cây bút chính luận quen thuộc trên mục Góc Nhìn Báo Vnexpress.
Xem thêm
Ngòi bút thi sĩ giữ lửa nghề báo: Một trăm năm mãi xanh
Bài đăng báo Văn nghệ số ra ngày 21 tháng 6 năm 2025
Xem thêm
Một thế kỷ đồng hành kiên định và khát vọng đổi mới
Bài đăng Văn nghệ Công an, số ra ngày 12/6/2025
Xem thêm
Khi phụ nữ làm thơ và làm báo bằng một trái tim
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 6/2025
Xem thêm
Không thể đánh cược tương lai vào một giấc mơ chưa có nền móng
Dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam đang được các cơ quan truyền thông “lề phải” quảng bá như một bước ngoặt mang tầm thế kỷ, là động lực phát triển, là biểu tượng hiện đại hóa.
Xem thêm
50 năm nhìn lại – Hành trình từ quá khứ đến tương lai
Bài đăng báo Văn nghệ Công an, số 761 (ngày 29/5/2025)
Xem thêm
Chọn nhà đầu tư ĐSCT: Nhìn từ hai đề xuất của VinSpeed và THACO
Ưu tiên minh bạch, lựa chọn người đồng hành chứ không chọn “người xin ưu tiên”
Xem thêm
Khi nước Pháp nắm tay chúng ta bằng sự tử tế và trí tuệ
Gửi đến Emmanuel và Brigitte Macron – một lời cảm phục. Gửi đến những ai gieo rắc định kiến và xúc phạm tình yêu – một lời cảnh tỉnh. Và gửi đến bạn đọc – những ai còn tin vào sự tử tế, xin hãy cùng tôi giữ gìn.
Xem thêm
Sứ mệnh của văn nghệ sỹ trước kỷ nguyên mới
Bài đăng trên Tạp chí Sông Lam, số 5/2025
Xem thêm
Một dòng chảy lớn mang dấu ấn của Thành phố anh hùng
Bài đăng Thời báo Văn học Nghệ thuật, số 20 ngày 15/5/2025
Xem thêm
Một chỗ đứng cho văn chương - Tiếng nói nhà văn
Giữ được ngọn lửa văn chương – cũng là giữ lấy linh hồn của dân tộc.
Xem thêm
Nhớ những ngày quân ngũ
Nguồn: Tạp chí Sông Lam
Xem thêm
Nhà thơ Nguyễn Văn Hùng: Nhớ một người thơ tử tế vừa ra đi
Tôi đánh giá Mẹ vào thơ là một bài thật hay trong chùm thơ vào loại hay của Nguyễn Duy Năng, có thể đàng hoàng vượt khỏi lũy tre làng đất Nghệ, để đến với bạn yêu thơ cả nước!
Xem thêm