- Nhà văn & Góc nhìn
- Chuyện làng văn nghệ: Sáu năm Nguyễn Đức Hạnh
Chuyện làng văn nghệ: Sáu năm Nguyễn Đức Hạnh
Một bài viết vừa dí dỏm vừa chan chứa nghĩa tình – “Sáu năm Nguyễn Đức Hạnh” của Văn Công Hùng khắc họa hình ảnh PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh – một người viết, người thầy, người bạn văn đáng quý, sống trọn với chữ, với đời và với bạn bè. Cánh buồm thao thức xin phép được đăng lại bài viết này từ Văn nghệ Thái Nguyên để phục vụ bạn đọc.
VĂN CÔNG HÙNG
Sáng nay mở facebook, mục kỷ niệm ngày này năm xưa chợt nổi lên cái tin đầu tiên: “Sáu năm kết bạn với Nguyễn Đức Hạnh”. Bèn vân vi nhớ.
Ấy là cái trại sáng tác do Tạp chí Văn Nghệ Quân đội tổ chức tại tỉnh Bến Tre, năm 2019. Ngay hôm đầu tiên “nhập trại” tôi thấy một ông to béo tóc xù xởi lởi tới bắt tay từng người. Bấm Đỗ Tiến Thụy trưởng trại tôi hỏi ai đấy, vì đa phần các tác giả nổi tiếng trong nước tôi thường quen, mà Tạp chí Văn Nghệ Quân đội là tạp chí “săn đầu người” rất giỏi, tức nhắm là anh sẽ phải có tác phẩm, mà phải tác phẩm hay, mới mời dự trại do họ tổ chức. Riêng tôi, cả ông Nguyễn Bình Phương, Sương Nguyệt Minh, Đoàn Văn Mật... và Đỗ Tiến Thụy lần này đều rao trước, mời bác đi cho vui, nhưng bác sẽ góp thành tích lớn cho trại nếu... không viết gì? Đỗ Tiến Thụy ghé tai tôi kịp nói: Thứ dữ đấy, thì một bàn tay to bè đã xòe trước mặt tôi: Em là Nguyễn Đức Hạnh ở Thái Nguyên, chào anh.
Từ trái: Tác giả, các nhà văn Kim Chi, Nguyễn Đức Hạnh, Nguyễn Thánh Ngã, Đoàn Văn Mật tại trại sáng tác của Tạp chí Văn Nghệ quân đội Bến Tre năm 2019.
Bỏ mẹ, nghe câu chào biết mình... già nhất trại rồi.
Sau này tôi nhớ viết trên facebook về anh: Nguyễn Đức Hạnh xuất hiện muộn, nhưng xuất hiện là lừng lững như một cỗ xe tăng mà lại uyển chuyển như những ngọn rau muống ao xanh mướt bò trên mặt nước. Anh viết cùng lúc cả phê bình, thơ, truyện ngắn mà cái nào ra cái ấy, lĩnh vực nào khuôn đúc lĩnh vực ấy, không trèo sang nhau đã đành, mà lại không nghe hơi hướng gì kiểu như đi qua hàng xào nấu thì vương mũi hành mỡ, mà qua vườn sầu riêng thì thơm mùi sầu riêng như một câu thơ bình dự mà lắng sâu của nhà thơ Lê Anh Xuân.
Là nhà nghiên cứu phê bình, anh có học vị tiến sĩ, học hàm phó giáo sư với 4 công trình nghiên cứu in thành sách. Là nhà thơ, anh là hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam với 4 tập thơ, ngoài ra anh còn là một cây bút truyện ngắn tài hoa, có 1 tập truyện ngắn đã xuất bản.
Người như Hạnh là khá hiếm trong giới văn chương, bởi với những chỗ đứng, góc nhìn ấy, rất dễ để góc này chi phối, thậm chí triệt tiêu góc kia. Anh cân bằng được hết giữa nghiên cứu, phê bình và sáng tác, cả truyện ngắn và thơ. Và vẫn rành mạch, việc nào ra việc nấy.
Trong mắt tôi ban đầu, Nguyễn Đức Hạnh là một ông giáo, chỉn chu hiền lành và khiêm tốn. Nhưng khi biết anh có sáng tác và liên tục đọc anh, thì nể.
Thơ anh rất nhuyễn giữa tứ và ý, giữa chữ và hình, mà say, mà cuồn cuộn cảm xúc và luôn đầy năng lượng, năng lượng của cảm xúc, năng lượng của chữ và năng lượng của tâm hồn, một tâm hồn rất trẻ, luôn trẻ của một ông giáo không còn trẻ, và nhờ thế anh là thi sĩ với những câu thơ rất trẻ. Nguyễn Đức Hạnh đang viết một cái trường ca, mới chỉ đọc bản thảo đăng dần trên facebook cũng đã thấy rất thích...
Sau đận trại Bến Tre ấy thì chúng tôi liên lạc với nhau thường xuyên. Viết được gì Hạnh hay gửi cho tôi xem. Còn tôi có vài việc nhờ Hạnh trong việc kết nối về giáo dục với một công ty nghe nhìn giáo dục, khi họ nhờ tôi giới thiệu cho một số chuyên gia về một vài vấn đề. Tôi chọn Hạnh trong danh sách ấy, và quả là đã không nhầm người.
Anh có tài phát hiện những cái mới giữa hỗn độn thông tin cũ, đã khuôn vàng thước ngọc lâu nay. Nhưng có một điều tôi hết sức thất vọng về anh, ấy là trình... công nghệ.
Nhớ tôi đã phải vật lộn với anh như thế nào từ việc ghi âm ghi hình tới chụp ảnh anh. Ở xa, mọi việc chúng tôi trao đổi qua mạng. Ôi giời ơi là nó khổ. Ghi đi ghi lại, chụp ảnh đi chụp ảnh lại. Anh nhờ con anh, nhưng thế nào đấy mà cái gì xấu nhất của anh thì nó lồ lộ ra. Nhưng khi tôi chê thì anh hồn nhiên nhắn lại: “Thì em xấu mà”, tôi điên lên, thì phải biết giấu cái xấu đi, nhắn lại: em không biết giấu. Nhớ là các kỹ thuật viên đã phải chỉnh sửa hình ảnh của anh như thế nào. Còn những gì anh nói, anh viết, các chuyên gia của công ty ấy, và cả tôi, phục sát đất.
Tôi nhớ có nhắn tin dọa anh: tớ sẽ viết một bài về Phó Giáo sư nhà thơ Nguyễn Đức Hạnh và trình IT, anh nhắn lại, hay anh ạ.
Thì đại loại, tôi phải... chỉ đạo từ xa: chú chịu khó nhờ cô học trò nào nó chụp cho phát đi, chú vào bàn ngồi, mở laptop làm việc, hoặc đang ngồi đọc sách chẳng hạn, bảo cháu bấm mấy kiểu, chụp xa xa chút (chỗ này là để tránh... cái bụng của anh nó cứ chường ra ở mấy cái ảnh trước đó). Anh nhắn lại, đầy... cam chịu: “He he em biết hình thức mình xấu. Thôi cố gắng bù đắp tí bằng nội dung. Cố hết sức rồi bác ơi, em xấu xí mà”. Rồi tới khi gửi, tôi cũng phải “chỉ đạo” từ xa là qua mail hoặc nếu zalo thì phải chế độ HD vân vân...
Nhớ hồi cái trại Bến Tre ấy, tôi có làm một cái diễn ca về trại, đoạn về Nguyễn Đức Hạnh nó như thế này: “Nguyễn Đức Hạnh người Nguyên xứ Thái/ đậm hương trà thấy rượu thì kinh/suốt ngày chỉ muốn làm tình/nguyện viên với các cháu mình văn chương”. Đúng là anh rất nhiệt tình với bạn bè, tất nhiên là có các bạn trẻ viết văn trong trại.
Lại nhớ hồi cơn bão Yagi chớm vào đất liền, rồi tiếp theo là “hậu Yagi”, tức là hoàn lưu bão, là những càn quét khủng khiếp của lũ ống, của lụt trắng xóa nhiều khu phố, làng mạc, Nguyễn Đức Hạnh đã liên tục thức suốt đêm bão gầm rú dùng facebook của mình chia sẻ tình hình tại chỗ anh sống, Thái Nguyên, và thông tin từ các bạn Facebook của anh, là học trò anh, bạn đọc của anh. Hàng ngàn lời kêu cứu được chuyển tiếp, được chia sẻ. Đấy là đêm mà rất nhiều tỉnh, thành phố phía Bắc bị cúp điện, tất cả tối om om trong nước cuồn cuộn, nước dâng tận mái nhà. Nhiều người leo lên nóc nhà chờ cứu. Nhưng không phải chỗ nào cũng vào được, vì tối, vì nước xiết, vì hiểm trở... Thừa nước nhưng không có nước uống, chia cắt không tiếp cận được, nhiều người phải ăn mì tôm sống và xong thì... không có nước uống...
Không chỉ thế, thức cùng bão lũ, Nguyễn Đức Hạnh còn viết rất nhiều, những câu chuyện ứa nước mắt, những câu thơ nhói lòng, Hạnh càng viết càng hay, càng như lên đồng, đây là những câu thơ của anh hồi ấy: “Qua bão càng thương nhau/ Đất lở ở Yên Bái/ Mưa lụt ngập Thái Nguyên/ Nước mắt đâu chả mặn?/ Mất mát đâu chia miền?/ Cầu gãy. Trôi thôn bản/ Sóng đục ăn mùa màng/ Bình yên tan trong bão/ Mây trời màu khăn tang/ Thương nhau chia hộp mì/ Vỉ sữa nhường bé trước”...
Với tôi, Hạnh (cùng vài bạn Thái Nguyên) có tội rất lớn, ấy là họ đã đầu độc tôi bằng... trà ngon, khiến tôi giờ là tín đồ của trà Thái, loại trà thửa mà chỉ các bạn Thái Nguyên mới có.