TIN TỨC
icon bar

Chợt nhớ... và nỗi nhớ quê nhà của tôi

Người đăng: nguyenhung
Ngày đăng: 2022-09-19 20:34:17
mail facebook google pos stwis
3514 lượt xem

NGUYỄN VIỆT TIẾN

CHỢT NHỚ

"Em ở sát nhà tôi

Cách nhau bờ dậu thấp

Tụi mình học cùng lớp

Mẹ em bán cau bán thuốc

Chợ Dầm xa vời vợi

Đường đi cát trắng trùng điệp nắng

Mà khi về chợ vẫn hay cười

Hương ơi

Bên giếng nhà em có cây chuối bồ hương

Quanh năm bóng mát sang vườn nhà tôi

Nhà tôi lài lý thơm về tối

Tôi bỏ ra đi, mười mấy tuổi

Mà sao còn nhớ tóc em dài."

(Nguyễn Hồi Thủ)
 

Nhà thơ Việt kiều ở Pháp đặt tên bài thơ của anh “Chợt nhớ”. Nhưng những câu thơ tự nó lại gợi lên một tâm trạng, một nỗi nhớ khôn nguôi, luôn luôn ám ảnh đến hối thúc, cồn cào. Bài thơ mở ra với hai câu thơ:

"Em ở sát nhà tôi

 Cách nhau bờ dậu thấp"

 Đọc lên thấy bóng dáng câu thơ quen thuộc trong bài “Người hàng xóm” của Nguyễn Bính:

"Nhà nàng ở cạnh nhà tôi

Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn"

Bài thơ “Người hàng xóm” của Nguyễn Bính viết năm 1940, và lập tức đi vào lòng người, được lớp trẻ hồi ấy đặc biệt hâm mộ. Thì ra câu thơ của Nguyễn Bính trở thành cái cớ, thành đối tượng để nhớ, nó là cái vốn tinh thần, như ca dao dân ca để đánh thức cái hồn quê, gợi lên bao kỷ niệm đối với người xa xứ phiêu bạt nơi chân trời góc bể.

"Cô hàng xóm" của Nguyễn Hồi Thủ cứ như từ trong thơ Nguyễn Bính bước ra, nhưng cô không phải là hình bóng đầy ước lệ với "bướm trắng, tơ vàng" mà đó là cô gái của làng quê ven biển miền Trung gần gũi, thân thương bình dị đến mức tác giả nhớ lại cả những kỷ niệm thời còn đi học, nhớ cả người mẹ thân yêu của cô gái nữa với những chi tiết hết sức sống động cụ thể:

"Tụi mình học cùng lớp

Mẹ em bán cau bán thuốc"

Nỗi nhớ cứ như thế lan tỏa ...

Tôi còn nhớ một câu nói: “Mảnh đất buộc người con trai xa xứ luôn nhớ về phải có một trong hai trường hợp: - Một là nơi đó chôn cất người thân của họ; Hai là nơi đó có người con gái họ từng yêu”.

Chàng trai này nằm trong yếu tố thứ hai. Người con gái quê hương là điểm bắt đầu, giống như những vòng tròn sóng trên mặt ao tĩnh lặng, như dây ngòi nổ pháo hoa vừa bén lửa lập tức tạo ra một phản ứng dây chuyền, làm bừng sáng tất cả.

Từ em gợi nhớ đến mẹ của em ... rồi đến cau đến thuốc đến chợ Dầm đến cả "Đường đi cát trắng trùng điệp nắng"... đến cả tiếng cười của mẹ em.

Chao ôi! Tôi lại nhớ: "Nụ cười đen nhánh sau tay áo" (Nắng mới - Lưu trọng Lư) sao mà giống miệng cười của mẹ tôi đến thế, mẹ em cũng là mẹ anh mẹ của hai ta, người mẹ Việt nam.

Vì thế con người và thiên nhiên đất nước cứ mở ra.... xôn xao, da diết trong tâm tưởng.

Nỗi nhớ đang mở ra, dàn trải như là sự giãi bày lan tỏa... chưa có “thơ”... bỗng chốc dồn tụ lại bật lên tiếng gọi  thành lời:

“Hương ơi” .

A! Đến lúc này thì người đọc hiểu ra rồi, cô gái nhà hàng xóm ấy mà tác giả bao năm nhớ thương quả là đã in dấu trong tâm hồn anh sâu nặng lắm, đến mức thỉnh thoảng anh phải gọi tên lên mới thỏa, và chính người thân yêu ấy lại gợi cho anh nhớ đến cảnh:

"Bên giếng nhà em có cây chuối bồ hương

Quanh năm bóng mát sang vườn nhà tôi"

Bụi chuối thì làm sao mà tỏa bóng mát quanh năm sang nhà hàng xóm được? Sao không phải cây xoài cây mận cây khế, v.v. tỏa bóng mát? Hóa ra chỉ vì cây chuối trùng tên gọi với em.

Cây chuối bồ hương.

 Em vẫn là tâm điểm, như là điểm sáng trong mơ để dẫn dắt anh về lại quê hương, đưa anh đi thăm lại mảnh vườn xưa, cho anh hít thở lại hương thơm hoa lài hoa lý. Bài thơ thực sự là thơ khi tác giả cất tiếng gọi như gửi vào xa xăm ... “Hương ơi”. Đây là tiếng nấc nghẹn, rung lên khi đôi môi mím chặt, là tiếng vỡ của nước mắt ... “Hương ơi”.

Mối tình “câm” của tác giả "Nhà tôi lài lý thơm về tối" (hoa của lòng tôi chỉ tỏa hương thơm trong đêm tối, ban ngày thì... vẫn chôn chặt trong lồng ngực mình) với cô gái hàng xóm thật trong sáng, thơ mộng sống mãi với thời gian, ủ giữ mãi cùng hình ảnh quê nhà.

 Những câu thơ cứ lung linh như chuỗi ngọc trai mà thời gian chỉ làm cho nó càng thêm óng chuốt, trong suốt ... và chính nhà thơ, như khi mở hộp báu để ngắm nhìn chuỗi ngọc ấy lại nuối tiếc, day dứt khôn cùng.

"Tôi bỏ ra đi, mười mấy tuổi

Mà sao còn nhớ tóc em dài".

Em đẹp thế, tóc em dài óng ả thế, quê hương mến thương đến thế mà tôi bỏ ra đi, dứt áo ra đi?

 Nhà thơ tự dằn vặt mình, tự trách móc mình nuối tiếc và ân hận. Bài thơ khép lại bằng hình ảnh mái tóc dài (lẽ nào chỉ nhớ mỗi mái tóc dài). Đó chính là dòng suối mát trong lành âm thầm chảy ... theo suốt theo trí nhớ làm diệu vợi nỗi đau xa cách không gian thời gian, cứ lặng lẽ luồn lách trong tâm tưởng, khi kìm nén không nổi cuối cùng buột miệng kêu thảng thốt:  “Hương ơi”. ... ngân vang trong tuyệt vọng như xé lòng người đọc.

Lặng úp bàn tay trên bài thơ mà bỗng thoang thoảng đâu đây hương mái tóc trinh bạch gội bồ kết hoa bưởi hoa lài còn vương vấn. Mái tóc ấy cũng là hình ảnh tiêu biểu cho vẻ đẹp truyền thống của người con gái Việt Nam, quê hương Việt Nam.

Đọc thơ như thấy được tấm lòng, cảnh ngộ của người viết bài thơ này. Ta như gặp lại người thân xa Tổ quốc đã lâu. Ai vì lý do nào đó sống xa quê, ngày bận mưu sinh, một đêm nằm trăn trở nơi xứ người mà nhớ vọng về quê hương xứ sở hẳn không quên ...

 “Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương"

 (Tĩnh dạ tư - Lý Bạch).

"Tư cố hương" lẽ nào cố hương có ai để ta ...  "Tư cố nhân"?

 Tâm trạng của anh xáo trộn, những kỷ niệm như những thước phim hồi tưởng cứ lộn xộn rối bời của những câu thơ kia lại gây một hiệu quả không ngờ, vì nó lại biểu hiện một cách tài tình cái logic của nội tâm dựng lên một trạng thái tâm lý rất thực. Bài thơ hay vì nó nói đúng cái hồn của con người.

Bài “Chợt nhớ” của Nguyễn Hồi Thủ viết năm 1971, sau này anh tập hợp và lấy tên bài thơ đặt tên cho cả tập. In tại Paris năm 1977, năm 1982 anh in tập “Tiếng kêu thương” và gần đây nhà xuất bản Chân mây cuối trời - Paris vừa in tập “Vũng nước bùn lầy” mới nhất của anh.

Thơ Nguyễn Hồi Thủ cũng chính là tiếng lòng kiều bào ta hướng về quê hương đất nước. Dù ở chân mây cuối trời, cộng đồng ngưới Việt nam vẫn khắc khoải nhớ về cội nguồn, không phải một thoáng "chợt nhớ" thương nào đó, mà chính là một niềm thương nhớ âm ỉ da diết, một niềm tiếc nuối day dứt mãi ....

Hà Tĩnh 1978  - Sài Gòn 2000.

(Bài do nhà văn Đặng Chương Ngạn gửi)

Bình luận

Để lại comment

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tản mạn chuyện... thẩm thơ
Tôi không nhớ chính xác đã đọc bài tổng kết cuộc thi thơ của Xuân Diệu vào năm nào, nhưng ấn tượng về sự tinh tế của ông hoàng thơ tình này vẫn còn mãi. Có hai ví dụ về những góp ý của nhà thơ Xuân Diệu mà tôi không thể quên.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 36: Khi nhà thơ bị “vô hình” trong ca khúc phổ thơ
Có một nghịch lý đáng buồn trong đời sống âm nhạc – thơ ca: ca khúc phổ thơ thì nhiều, nhưng tên nhà thơ thường bị quên lãng.
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Khúc tri âm dịu dàng của một tâm hồn nữ tính
Tập thơ “Chữ gọi mùa trăng” của Triệu Kim Loan là thế giới nội tâm phong phú, đa chiều của một tâm hồn phụ nữ đầy trải nghiệm.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 35: Ai đang gieo “tin giả” trong văn học?
Ai mới thật sự gieo “tin giả” vào lòng công chúng? Và phải chăng chính sự thiếu minh bạch, thiếu chính trực của những người cầm bút mới là “chất độc” đầu độc niềm tin văn học hôm nay?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 34: Hư cấu nghệ thuật trong phim “Mưa đỏ”
Một tác phẩm nghệ thuật thành công không nằm ở việc tái hiện chính xác từng chi tiết, mà ở chỗ khơi dậy tình yêu nước và lòng biết ơn cha anh, để lịch sử tiếp tục sống động trong tâm thức nhiều thế hệ.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 33: Khi “cái kết nhân văn” đi nhanh hơn tâm lý nhân vật
Truyện muốn nhấn mạnh tình máu mủ nhưng lại quên rằng tình phụ tử cũng cần thời gian và sự bồi đắp. Khi sự hòa giải diễn ra quá nhanh, cái nhân văn mà tác giả mong muốn dễ trở thành “nhân văn nóng vội”, chưa kịp đi qua những ngập ngừng, day dứt – vốn là hơi thở của đời thường.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 32: Nguyễn Duy và tiếng chuông gọi tên mười loại phê bình
Bài văn tế đặc biệt của nhà thơ Nguyễn Duy – một lời cảnh tỉnh, một tiếng chuông thức tỉnh từ một thi sĩ từng trải
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 31: Trăm Ngàn – từ cẩu thả chữ nghĩa đến vụng về truyền thông
Lần này, chúng ta hãy nghe hai cây bút vốn được xem là “những kẻ lắm chuyện” – TS Hà Thanh Vân và nhà văn Đặng Chương Ngạn nói gì? Một người đào sâu từ góc độ truyền thông – giữa báo chí chính thống và mạng xã hội, một người lại lật tung những chi tiết cẩu thả và phi lý trong chính văn bản truyện.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 30: Khi ý tưởng bị đánh tráo
Bàn tròn Văn học kỳ 30 xin mời bạn đọc cùng đối thoại về câu chuyện này – không phải để truy cứu cá nhân, mà để suy nghĩ sâu xa hơn: văn chương sẽ đi về đâu, nếu lòng tin của người viết trẻ bị phản bội và lòng tin của công chúng bị bỏ rơi?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 29: Phản biện ẩn danh - Dũng khí hay sự né tránh?
Trong Bàn tròn kỳ này, câu chuyện nói về hiện tượng phản biện văn chương dưới những cái tên xa lạ, thậm chí là ẩn danh.
Xem thêm
Thi pháp của thơ ngắn – Trường hợp Mai Quỳnh Nam
Trong tất cả các thể loại văn học, thơ ca là nơi ưu tiên hàng đầu cho các hình thức ngắn gọn. Điều này không chỉ thể hiện ở độ dài khiêm tốn của các tập thơ mà còn nằm ở đặc trưng nội tại của thơ, vốn hướng đến sự cô đọng hơn so với các thể loại khác (như tiểu thuyết).
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 28: Minh bạch – từ chuyện nhỏ đến vấn đề lớn
Bàn tròn Văn học kỳ 28 không nhằm khơi gợi thị phi, càng không phải góp gậy góp đá “đánh hội đồng” một tổ chức nghề nghiệp mà chính “thư ký bàn tròn” này được vinh dự là hội viên.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 27: Công bằng trong xét giải - Từ quy chế đến thực tiễn
Giải thưởng văn học hằng năm của Hội Nhà văn Việt Nam đang đối diện một nghịch lý: quy chế một đằng, thực tế một nẻo.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” - Hành trình từ chiến trường đến nhân sinh
Lời ru bão giông của Trần Hóa không chỉ là một tập thơ, mà là bản hòa tấu của ký ức, trải nghiệm và những suy ngẫm về đời sống.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 26: Khi công bằng bị bỏ quên, im lặng trở thành câu trả lời
Bàn tròn Văn học kỳ này xin giới thiệu nội dung tóm lược của hai bức thư ngỏ – coi đó như một lời chất vấn trực diện, một thử thách đối với tính minh bạch và liêm chính của một cuộc thi văn chương quốc gia.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 25: Minh bạch là điều kiện sống còn của uy tín văn chương
Bàn tròn kỳ 25 chọn hai bài viết mới nhất của nhà văn Đặng Chương Ngạn về “thầy Uông” – thành viên Hội đồng Sơ khảo – như chất liệu để trao đổi thẳng thắn.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 24: Trăm Ngàn câu hỏi, một chữ Minh bạch
Xin mời bạn đọc cùng ngồi lại, để lắng nghe, để bàn luận, và biết đâu, để cùng trả lời câu hỏi day dứt: Liệu văn chương Việt có thể đứng thẳng bằng phẩm giá của nó, hay sẽ mãi lẫn lộn trong những “trăm ngàn” trò chơi lợi ích?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 23: Giải thưởng, danh hiệu và chuẩn mực văn chương hôm nay
Nếu ở các kỳ trước, chúng ta chủ yếu xoay quanh truyện ngắn Trăm Ngàn, thì lần này, hai ý kiến góp mặt mở rộng vấn đề sang một góc nhìn gai góc hơn: chuyện “lợi ích nhóm” trong đời sống văn học – nghệ thuật.
Xem thêm