TIN TỨC
icon bar

Nguyễn Duy Năng, biển neo tiếng sóng, sóng neo tình người

Người đăng: nguyenhung
Ngày đăng: 2025-03-24 18:47:43
mail facebook google pos stwis
193 lượt xem

 

Nguồn: 

HỮU VINH

Chúng tôi chọn tập “Biển neo tiếng sóng” để giới thiệu về nhà thơ Nguyễn Duy Năng bởi ông sinh ra và lớn lên với biển, lúc hồi hưu, như nhớ biển, ông dùng giằng giữa biển và phố, rồi cuối cùng ông quyết định náu mình bên bờ biển Cửa Hội. Là một người con của biển, thơ Nguyễn Duy Năng luôn dạt dào như muôn trùng con sóng. Ở đó, ta bắt gặp một Nguyễn Duy Năng lúc cuồn cuộn cảm xúc, lúc trầm lắng trong những dòng triết lý suy tư, lúc bình thản như ngóng về phía biển.

Nhà thơ Nguyễn Duy Năng.

Biền neo tiếng sóng, NXB Hội Nhà văn 2012, là tập thơ in chung với Tú Tâm. Phần 1 có tên “Biển neo tiếng sóng” gồm 27 bài của Nguyễn Duy Năng; phần 2 có tên “Trên đồng làng” gồm 50 bài của Tú Tâm. Trong khuôn khổ bài viết này, xin được giới thiệu phần 1 – Biển neo tiếng sóng, của nhà thơ Nguyễn Duy Năng.

Nguyễn Duy Năng sinh năm 1944 trong một gia đình có nghề đi biển. Cuộc đời ông gắn với biển biển từ những ngày thơ bé cho đến khi trở thành cán bộ quản lý nhà máy đóng tàu Cửa Hội, Quốc doanh đánh cá Cửa Hội: “Tôi sinh ra mắt lưới nhìn ráo hoảnh/ Những mái chèo ngán ngẩm đuỗn dài chân” (Tôi và chài lưới). Chắc vì vậy mà ông hiểu những nhọc nhằn đắng đót của người dân kẻ biển. Trong cuộc sống gieo neo, người kẻ biển luôn biết cách vươn mình vượt qua con sóng và dìu dắt nhau vào bến bình yên. Nguyễn Duy Năng có những câu thơ nghẹn ngào đến rơi nước mắt:

“Cá dậy thì đỡ đần con cá đau vượt cạn
Dắt díu nhau cười, những con mắt tròn xoe”
(Người kẻ biển)

Để sinh tồn, người dân biển phải đổ mồ hôi quanh năm suốt tháng, ấy vậy mà chưa bao giờ thoát được cảnh nghèo. Cái nghèo như định mệnh:

“Trời không vần vũ mây mưa
Áo anh cũng ướt từ trưa sang chiều
Hạt thóc không mảnh đất gieo
Hận sông hận biển trút nghèo vào anh”
(Một ngày, anh tôi)

Cuộc sống dân biển là vậy, họ sống giữa bốn bề trống vắng, cây cỏ hắt hiu, đến hàng xóm cũng thưa thớt: “Ở nơi trống vắng cây xanh/ Một thuyền một bóng đã thành khóm quê”. Họ sống với những bữa cơm kham khổ: “Tập tàng để bụng nồi canh/ Lá rau – thang thuốc tranh giành lẫn nhau”… Tương lai thì ảm đạm: “Ở nơi cái sống lia thia/ Ước  mơ chưa chín đầm đìa một xanh”. Đồng cảm với những vất vả, thiệt thòi của người kẻ biển, Nguyễn Duy năng có nhiều hình ảnh ẩn dụ xúc động: “Cua bò ra biển buông câu/ Cáy chờ bủa lưới vây giàu. Lưới thưa”.


Tập thơ “Biển neo tiếng sóng” của hai tác giả Nguyễn Duy Năng, Tú Tâm. Ảnh: Minh Đăng.

Ai đó có thể thấy vẻ đẹp hùng vĩ, huy hoàng của biển, thấy cuộc sống của những người dân biển nên thơ. Nguyễn Duy Năng thì khác, ông nhìn cuộc sống người dân biển quê ông bằng cái nhìn hiện thực trần trụi:

“Không có được câu thơ lấm bụi
Người con gái
Quảy hai đầu tôm cá vào thành
Vớt từ biển một câu thơ vội
Dẫu kĩ càng ướp đá vẫn còn tanh”
(Gánh biển vào phố)

Đời biển, đời người, đời muối nương tựa vào nhau nhưng tất cả đều mong manh, chống chếnh. Vẫn là mẹ, người phụ nữ làm dâu làng chài, loay hoay mãi mong tìm một lối thoát mà sao bất lực. Nguyễn Duy Năng thấy trong hạt muối vị mặn mòi, đắng chát mồ hôi của mẹ, của người dân kẻ biển:

“Mẹ ngồi đan lưới bên thềm
Đan thưa cái nghèo không lọt
Đan dày gió bão không qua
Thắt vào nhiều hơn thắt ra
Hạt muối theo người đi xa
Chạt từ mồ hôi mặn xuống”
(Quê hương và hạt muối)

Dắt mẹ vào thơ là một bài thơ hay của Nguyễn Duy Năng. Bài thơ có sự bùi ngùi về mẹ và cũng là về thân phận những người phụ nữ làng chài. Ở đó có nỗi ám ảnh cảnh nghèo, cảnh tù túng của người dân vùng sông nước. “Cửa sông” vừa là một không gian tả thực: không gian cuộc sống của mẹ, của những người dân vạn chài vừa mang ý nghĩa biểu tượng: cuộc sống đơn điệu, chật hẹp, hoang vắng:

“Mẹ về làm dâu cửa sông
Không nơi khô ráo mà mong trú vào”

Cuộc sống làm dâu của mẹ như bị những con sóng dìm xuống, một mình mẹ cô độc, nhỏ bé:

“Con sóng thấp, con sóng cao
Ứớt đầm đời mẹ xanh xao bãi bờ”

Một lần nữa, không gian “cửa sông” lại xuất hiện, đó không phải là không gian mở ra mà là không gian bủa vây, không gian kìm tỏa con người.

“Cửa sông không bến đò ngang
Neo vời đời mẹ đa đoan giữa dòng”

Không gian cửa sông trong bài thơ gợi nhớ hình ảnh người vợ của Trần Tế Xương “quanh năm buôn bán ở mom sông” hay hình ảnh “con cò lặn lội bờ sông” trong ca dao:

“Một mình mẹ một dòng sông
Tự làm mặn muối tan không bến bờ”

Dắt mẹ vào thơ là dắt mẹ vào một thế giới vô ưu? Một thế giới đối lập với thế giới mà mẹ đang sống? Vâng, những mong là mong thế nhưng mẹ vẫn một đời lận đận:

“Con mong dắt mẹ vào thơ
Thơ chưa ráo mẹ vẫn đưa chân vào”

Trước biển mênh mông, Nguyễn Duy Năng không khỏi suy ngẫm về cuộc đời. Trong mắt ông, biển bao la bất tận biết đâu là nơi đi nơi đến. Đường biển chỉ là những quy ước trừu tượng:

“Trên biển kỳ thực làm gì có đường
(Trừ đường trần thì đâu mà chả có)
Ngay chiếc la bàn từng mài mòn trí nhớ
Đến nhọn hoắt thành kim cũng mang máng mạn Bắc – Nam”.
(Biển làn gì có đường)

Biển bao la rợn ngợp chứa đựng bao nguy hiểm, bủa vây, rình rập con người: “Biết là biển không có đường/ Các cơn bão già nư xéo tung bờ nam biển bắc”. Nhà thơ chạnh lòng thương một cánh chim nhỏ nhoi, chới với giữa cõi mung lung: “Chỉ thương con chim không có cây đường mà tựa lưng chợp mắt/ Nên chưa tắt mặt trời đã dáo dát tìm bạn tít hoàng hôn”(Biển làn gì có đường). Thương người dân biển phải gồng mình chống chọi với sóng gió biển khơi chỉ bằng mảng dây neo, cánh buồm nhỏ nhoi, con sào ốm yếu. Họ phải “đi xuyên giữa rậm rì đắng chát”, để rồi “nếu phải chết tự đóng băng đường chết” bởi “Biển làm gì có đường”.

Cũng từ những con sóng biển, Nguyễn Duy Năng nhìn thấy những con sóng đời, tuy hai mà một, với những nét tương đồng:

“Là con sóng tự chia làm hai nửa
Nửa rút ra khơi nửa ở lại bến bờ”
(Hai một nửa)

Bằng những ẩn dụ, Nguyễn Duy Năng đã soi thấu bi kịch của con người qua bi kịch của sóng: đó là bi kịch của niềm đau, bi kịch của đợi chờ, bi kịch của chia ly… Hai nửa con sóng chia đôi như hai số phận, hai cảnh đời, với những nỗi đau:

“Nửa ngoài ấy to thuyền nên sóng lớn
Giữa mênh mông biết chi đến bến bờ
Nửa trong này gồng mình lên chịu đựng
Để một đời gặm nhấm mối tình xưa
Một nửa ấy không hẹn ngày quay lại
Làm bến bờ lồi lõm những vết đau
Làm bạc tóc một nửa này ở lại
Càng oằn lưng muốn khỏa lại càng sâu
(Hai một nửa)

Nhà thơ soi chiếu vào lòng biển, mỗi đặc tính của biển là một đặc tính của con người, bởi ông hiểu lòng biển cũng như lòng người vậy: thăm thẳm sâu, khôn cùng đáy mà lồ lộ ra cả đấy thôi.

Nguyễn Duy Năng thương con sông đã phải hy sinh đời mình vì biển. Sông đã không còn là sông nữa, vì biển, sông hiến dâng cả cái bản ngã của mình:

“Biển vẫn thế tình mềm như lạt
Nên lòng thuyền dây nhợ mãi thừ ra
Sông đến biển để quên đời sông ngọt
Tự mặn mình với sởi lởi bao la”
(Lạt mềm)

Chất triết lý trong thơ Nguyễn Duy Năng đạt đến độ cô đọng, súc tích trong bài Lời tặng muối. Từ hạt muối, ông nghĩ về đời, về người, về lẽ sống. Phải là người thấm vị đời, hiểu vị biển lắm Nguyễn Duy Năng mới có những dòng thơ suy tư như thế:

“Nhiều tiền người ta tích vàng
Mấy ai dại khờ trữ muối
Nhịn vàng trăm năm không đói
Thiếu muối một ngày lao đao
Một hạt cũng coi là thiếu
Lưng môi lại đã là nhiều
Giá đem thử vào tình yêu
Sáng vàng không bằng mặn muối”
(Lời tặng muối)

Ngẫm về đời rồi ngẫm về mình, Nguyễn Duy Năng cũng suy ngẫm bằng cảm quan triết lý. Ngẫm về mình, nhà thơ khiêm nhường và buồn tủi: “Tôi như/ bèo bọt trôi sông/ lắng không đến đáy/ Dạt không tới bờ”. Ông chân thành tự nhận: “Tôi câu/ khôn dại vật vờ/ Cái ghét thì nổi/ Điều ưa lại chìm”. Đã thế, cuộc đời lại trớ trêu: “Ngon canh/ khéo ở tay nêm/ Nêm tôi mặn chát/ Vào em ngọt ngào” (Nêm). Lúc về già, dù đã được tận hưởng cuộc đời, dù thành đạt, vợ con đề huề, hạnh phúc, ông vẫn nhận ra lẽ vô thường: “Mẻ lưới cuộc đời tròn trĩnh một số không” (Tôi và chài lưới).


 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Vũ Quần Phương với thơ hay
Trong số những nhà thơ kể trên, thì Vũ Quần Phương là người viết nhiều lời bình hơn cả, ở đây có bình tác giả, bình tập thơ và đặc biệt là bình các bài thơ hay, như là một đơn vị cơ bản trong sản xuất và tiêu dùng thơ.
Xem thêm
Một phía của đời - Giữa hữu hạn và vô hạn
Về tập thơ Một Phía của Mai Quỳnh Nam
Xem thêm
Đặc sắc của Khuất Quang Thụy
Bài viết của Nguyên An và thơ của Nguyên Hùng
Xem thêm
Một phía nhìn từ nhiều phía
Vừa mới sáng nay, tôi tình cờ đọc được bài viết “Một phía nhìn từ nhiều phía” của Dương Kỳ Anh trên website báo Văn nghệ Công an, thì cách đây chục phút lại đọc được tin dữ qua FB nhà thơ Hữu Việt về sự qua đời thật đột ngột của nhà thơ, cựu TBT báo Tiền Phong.
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Tấn Phát - người tìm lại tình đời
Bài viết về tiểu thuyết “Hoàng hôn lóng lánh”
Xem thêm
Nhịp cầu kết nối – Khi Nguyễn Trường dẫn lối độc giả
Bài đăng website Tạp chí Nhà văn & Cuộc sống
Xem thêm
“Thơ như tôi hiểu” - Một góc nhìn mới về ngôn ngữ thơ
Về cuốn sách “Thơ như tôi hiểu của Lê Xuân Lâm”
Xem thêm
Hồ Thế Hà đường thơ tối giản
Nguồn: Đỗ Lai Thúy/Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 11/2024
Xem thêm
Đôi khi với các nhà thơ Nguyễn Thánh Ngã và Dung Thị Vân
Đọc tám câu lục bát của nhà thơ Nguyên Hùng do nhà thơ Dung Thị Vân chép tay, tôi không khỏi giật mình...
Xem thêm
"Những câu thơ thật thà tuột run qua tim”
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ Quân đội
Xem thêm
Nhà văn Như Bình và Sự im lặng biếc xanh
Bài viết của nhà thơ Ngô Đức Hành trên Dân Trí
Xem thêm
Nghệ thuật ký họa chân dung bằng thơ của Nguyên Hùng
Bài viết công phu của PGS-TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Nguyên Hùng với nghệ thuật lắp ghép, sắp đặt - hai trong một
Bài của nhà văn Kao Sơn trên Văn nghệ Công an
Xem thêm
“Trăm khúc hát” ngân vang từ “một chữ duyên”
Chữ duyên - cội nguồn “Trăm khúc hát” và nhiều thi phẩm khác của Nguyên Hùng - chính là sự gắn bó máu thịt của nhà thơ với vùng quê tuy gian khó nhưng đầy ắp tình người, giàu truyền thống cách mạng và thi ca
Xem thêm