TIN TỨC
icon bar

“Sợi tình tơ nghĩa” trong “Ký họa thơ” của nhà thơ Nguyên Hùng

Người đăng: nguyenhung
Ngày đăng: 2024-10-07 11:36:59
mail facebook google pos stwis
1300 lượt xem

VỀ THƠ NGUYÊN HÙNG
(Mời click vào dòng chữ trên để truy cập chuyên mục)

TUẤN TRẦN

Thơ lồng trong thơ. Đời đằm trong thơ. Nhà thơ ngậm ngùi ngồi trong thơ hay cái đẹp tôn vinh cái đẹp. Dùng thơ vẽ “hồn thơ”. Dùng thơ vẽ “đời thơ”. Dùng thơ vẽ số phận của nhà thơ cho “nên thơ”. Tất cả từ thứ thơ sinh ra để hết mình cho việc tri ân thơ và “hồn thơ” đó là “KÍ HỌA THƠ (81 CHÂN DUNG VĂN HỌC” của một “LẶNG THẦM HOA QUÊ”

Con người Nguyên Hùng trước hết với tôi là một nhà thơ thuần lành, thuần khiết và thuần giãn. Thơ Nguyên Hùng trước hết với tôi là “ngõ nhỏ quê mùa” luôn rộng mở đón khách, những vị khách với bước chân vô tình. Ngõ nhỏ đủ lặng lẽ cho những nhịp đời đã “mỏi gối chùn chân”. Tôi tìm đến thơ anh trong những vần thơ mộc mạc đời thường. Con người anh cũng như loài “hoa khoai” ấy: mong manh, nhàu nhĩ, phơn phớt tím. Vì áp vía mặt đất nên hương cũng chỉ vậy thôi: mùi hương thôn, mùi đất nghèo, rất khiêm nhường mà rất kiên cường: “Thương quê mình đồng khô gió mặn/ Thương hoa khoai tím trắng dịu dàng” (Lặng thầm hoa quê). Bối cảnh cuộc sống với tốc độ sống bức bối, gấp gáp, người ta đói những kết nối với sự an ủi bình yên. Chính vì thế mà thơ Nguyên Hùng đã trở thành “Trăm khúc hát một chữ duyên”. Cái quê mùa đó đã cất cánh bay lên như tiếng sáo mục đồng gọi lại thời gian hoài cựu êm thấm, ôn nhu, từ ái…
 


Ra mắt "Ký họa thơ" và "Trăm khúc hát một chữ duyên" - Clip 2
Hình ảnh tư liệu: Lê Thanh Huệ, Đậu Thanh Sơn, Bá Vượng, NH - Dựng clip: Nguyên Hùng


Những khúc hát nghĩa nặng tình sâu sẽ còn đó, đồng vọng tha thiết, vuốt dịu không khí nhức nhối của đổi chác mưu sinh hôm nay. Ta đã gặp hồn thơ anh ở một vai trò khác, vị trí khác, ở một giá trị thẩm mỹ và nhân văn khác: cái giao hảo người- người trìu mến, thân thương. Cái đối xử với mình nhẫn nại, cân nhắc: Bền lòng, khoan thư, dung thông cởi mở, dịu ngọt với đời sống.

Chính cái nhìn “trung hòa” và hồn thơ “chân ngã lương thiện” đã “hữu ý” kết nối anh với những hồn thơ khác và đứa con tinh thần KÍ HỌA THƠ (81 CHÂN DUNG VĂN HỌC) đã ra đời “đúng người và đúng thời điểm”. Cái ngoái nhìn này, ánh mắt “huệ nhãn” của tác giả đã lặng thầm nói lời cảm tạ. Đôi đồng tử lấp lánh sự sống tri ân và hàng mi hơi cụp xuống đó đã thể hiện ánh nhìn hoài cảm cho nỗi lòng kẻ đi gieo chữ, cày mây trên trời và gieo trồng muôn dặm sao. Nhân sĩ đời nào chẳng tự làm đau mình để thấu hiểu sâu cay nỗi đau của đời…

 Bằng tất cả những gì đẹp đẽ nhất trong lòng lành thiện hạnh nhà thơ đã tung tẩy “nét cọ” của mình tạc vẽ những gương mặt Nghệ sĩ thi ca với độ trong đẹp nhất nơi tâm hồn của họ và cuộc đời thẩm mỹ đa mang, chói gắt, nhạo báng, máu tươi, nước mắt gặp gỡ giữa hai hàng lệ tuôn khi đi qua chìm nổi thế thái nhân tình. 81 gương mặt nhân sĩ đều “hữu duyên hạnh ngộ”, “ngẫu nhiên tương phùng” giữa bể người mênh mông và không ngại xem nhau là tri kỉ. Sở dĩ tôi cảm- tưởng như thế vì tôi hiểu cái hồn cốt dân dã “quê mùa” thì lấy đâu ra rắc tâm lựa lọc, mưu tính, sắp đặt. Nhưng một điều cao hơn tất cả đó là 81 chân dung được “khắc [khoải]” đều gặp gỡ anh hồn thơ của chủ thể trữ tình ở sự hết mình cho nghệ thuật, đã mất mát vì nghệ thuật, đã dành cả một đời lao động thơ ca như cách “móc tim mình ra cho quạ rỉa”. Hiến tặng linh hồn mình cho loài “ác điểu” hi vọng nó “dung thứ” cho cuộc đời: “Để nửa đời mình anh trong một thế giới”. (Kí họa chân dung “Trần Mạnh Hảo”, Tr. 56). Như lá vàng rụng đơn độc vẫn tiếp tục nâng níu bước chân đời bằng những con đường mùa thu êm ả. Và dĩ nhiên khi đã “phụng hiến vô tư” bất chấp “rỉ máu” nghĩa là họ có tên trên chiếu thơ đương đại với những vị trí cao đạo nhất. Như “con thuyền chở đạo nặng tình non sông” (Kí họa chân dung “Bảo Định Giang”, tr. 48)

Để nói về cuốn KÍ HỌA THƠ (81 CHÂN DUNG VĂN HỌC) của tác giả Nguyên Hùng tôi xin “khảm bạc” trong mấy chữ và chỉ cần ngần nấy thôi là đủ: “VƯƠN TỚI CÁI ĐẸP THUẦN KHIẾT”. Bởi vì “lá rụng về cội”, họ đi từ làng, bờ tre mái rạ, từ đồng xanh, lũy tre, hương sen bát ngát. Thì họ cũng sẽ về nơi đó nơi “thuần khiết” và chìm vào mênh mông lòng mẹ để “giọt máu dân gian tái sinh”: Tái sinh trong lục bát với lối kể về đời và thơ tâm tình, nhẹ nhàng, sâu lắng mà lại phơi ra đó “đời du ca” ngất ngưởng nhưng đầy sĩ khí.

81 bông hoa hồn hậu quê nhà và rời làng âm thầm như cơn bão: Kẻ ra trận, người lạc nẻo. Người đã về với tiên thiên, ai đó ở lại vẫn đắng đót tìm “trầm” thơ.  Những văn nhân và nhạc sĩ được tuyển lựa để kí họa là những tác giả đã tạo ra những định hướng cho nền Văn học Việt Nam hiện đại. Dùng thơ để giới thiệu về “gương mặt” (phong cách) thơ, văn, nhạc của các nghệ sĩ chắc hẳn tác giả Nguyên Hùng đã phải tỉ mẩn và tế vi để gia công. Muốn làm được điều đó trước hết phải có “lòng”. Tấm lòng của “viên quản ngục” (Chữ người tử tù _ Nguyễn Tuân). Tấm lòng thiên hạ, yêu cái đẹp, nguyện hiến cho cái đẹp và “phủ phục” để có được cái đẹp.

Thế nhưng mang “tấm lòng viên quan coi ngục” mới chỉ là một góc để cho cuốn “Kí họa thơ” ra đời. Điều quan trọng là cái nhìn hệ thống, sự đọc, óc khái quát, tính sáng tạo tuyệt vời của nhà thơ Nguyên Hùng cho sự tri ân tới các tiền bối và đồng bối trên sân khấu văn chương hiện đại.

Những bài không dài, nhưng đủ để tổng hợp “gia tài” của các nhà thơ, nhà văn và nhạc sĩ được điểm tên. Cách kí họa với nhiều thể thơ phù hợp theo “sử văn” của tác giả. Sự xếp đặt câu chữ chính xác và ý thức gọt đẽo ý tứ đã tạo nên sự vuông vắn đẹp đẽ cho mỗi chân dung và đạt được giá trị “tương đối” trên phương diện thông tin và “tuyệt đẹp” trên phương diện thẩm mỹ:

“Trai Hải Phòng Một đêm Hà Nội/ Hồn mơ màng theo khúc Thiên Thai” (Kí họa chân dung Văn Cao, tr 26). Cùng trong một câu thơ có hai địa danh: Một địa danh là nơi sinh ra, một địa danh là “địa danh nghệ thuật”. Sự bắt nối cảm- hiểu nơi thơ được tác giả hành dụng ngôn từ thật “chân xác”. Như “xâu chỉ luồn kim” để thêu thùa những đường nét căng đầy mà mong manh “phận mỏng cánh chuồn” đã rụng xuống mặt hồ thu lăn tăn đôi ba gợn sóng. Văn Cao vốn dĩ đã sống “căng đầy” cho lý tưởng nhưng rồi Buồn tàn thu ám vận suốt một đời”. Bản nhạc “Buồn tàn thu” kết hợp tương khớp và nhịp nhàng với câu chữ biểu đạt số phận bị “sóng dập gió vùi” trên con tàu “Văn Nhân Giai Phẩm” đã thể hiện cách “thắt bặt” chữ nghĩa sáng tạo tuyệt vời của nhà thơ để mọi diễn ngôn đều không một gút sợi như bị “ép buộc” gả ghép…

Khi kí họa chân dung Trần Đăng Khoa, giọng thơ chuyển đổi nhịp nhàng, hồn nhiên để phù hợp với tâm thức hồn thơ của nhà thơ cũng là cách để ca ngợi thời điểm thơ dọi sáng thần đồng. Ngũ ngôn hiện đại hóm hỉnh, vui tươi, họa cả dung dáng đời thường của tác giả: “Dáng chú Cuội nông dân/ Mà hoạt ngôn- hóm- sắc”. Đôi nét khảo sát trên đã cho thấy tinh thần thẩm mỹ trong tập thơ, giá trị của nó là trên nhiều phương diện. Sự ra đời của nó là cần thiết ở thời điểm văn chương nghệ thuật đang “mờ mờ” trước thứ phù phiếm phàm phu của những trò giải trí rẻ tiền…

Những gương mặt được tuyển lựa đã tạo được dấu ấn đặc biệt nổi bật trong văn chương đương đại. Không chỉ nói về tác phẩm, văn cách mà Nguyên Hùng còn tìm hiểu để đan cài khéo léo những “bóng hồng” bên đời các nhà thơ và nghệ sĩ. Từ đó kí họa bỗng trở nên “trìu mến”, hết sức dễ thương.

Tác giả “không ngần ngại” giới thiệu và giới thiệu độc đáo, am tường về Bùi Anh Tấn và thế giới Văn học đồng tính. Người đọc có dịp nhìn nhận “cởi mở” và mở ra muôn ngã nghĩ ngợi cho sự có mặt của “ảnh tượng” đồng tính với vai trò trung tâm trong văn học và cả văn hóa Việt Nam đương đại.

Cuốn KÍ HỌA THƠ (81 chân dung văn học) của Nguyên Hùng đủ tư cách của một cuốn văn học sử về cuộc đời và văn nghiệp của những tác giả được kể đến. Ngôn ngữ kí họa với tư thái trữ tình, tính dân gian nhẹ nhàng, uyển chuyển trong các thể thơ dân tộc đã giúp người đọc dễ dàng nhận diện ra “gương mặt” nghệ sĩ.

Xét góc độ thẩm mỹ của hình thức in ấn, trình bày. Điều này là một phần quan trọng để cái đẹp được toàn bích trong bối cảnh tiếp nhận nghệ thuật hiện đại. Bìa sách có họa nửa dung hình của các nhân sĩ như dụng ý về việc còn đó những điều chưa thể nhận diện được bởi những chân dung kia là những con người đã làm nên thế kỉ. Làm nên lịch sử trên nhiều mặt trận: “Máu và Hoa”. Cho nên luôn còn đó những giá trị mênh mông cho đời đời chiêm ngắm.

Nhìn lên bức tường đầy gia huy kia một lúc, mở rộng trí tưởng tôi như thấy mình bước tới gian phòng huy hoàng được treo trên tường các bức họa cổ kính. Những bức tường nơi đây đã kể lại bao điều. Bức chân dung những ai kia thật kì vĩ. Những đôi mắt đã chảy xiết bao giọt lệ thấm sâu vào giấy mực. Trong đôi đồng tử đã từng âm vang tiếng thở dài chân thành buồn bã. Dụng ý cắt tranh thành hình bán nguyệt đã giúp hiển lộ đôi “đồng tử” sáng hoắc, chứa ngàn tia lửa ưu uất: Có đôi mắt còn trâng tráo. Có đôi mắt như có ánh thép chiếu diệu. Rồi nụ cười ai kia như bông hoa dọc chiến hào nở rộ năm cánh tươi màu dưới bầu trời quang đãng. Chỉ riêng đôi mắt “Hoàng tử thơ tình” vẫn ngây thơ. Bởi chén đời mắt ai anh đã uống cạn. Ái tình như rượu ngọt chỉ tiếc chàng đã uống quá say. Để mắt chàng “nghiêng nghiêng” nhìn đời như bóng lưng “Em đi rượu cạn, còn lời Thanh Ca”.

Kí họa thơ, hình ảnh chân dung cùng những chú mục thông tin cho mỗi một nhà thơ trong hai mặt giấy đối xứng. Cỡ, kiểu chữ không chói màu, người đọc thấy dịu mắt cho nên đã cay khóe mi rồi đong chứ dòng lệ đến nhói lòng khi đọc tới “giọt máu” cuối cùng chảy lan thấm từ bức bích họa được treo phía cuối căn phòng đó:“Đành ngậm ngùi dắt yêu thương rời cõi tạm”.

Mở đầu kí họa hồn thơ chủ thể trữ tình đã gặp được “người cha” của mình. Người cha của nông thôn làng cảnh. “Hạt bụi vàng quê mùa” đó đã về đây hôm nay để chứng kiến người con trai của mình viết về cha anh, bè bạn. Nghe phảng phất trong gió hương đồng gió nội. Cha đã về kịp để hôn lên vầng trán trỉn mồ hôi đồng chua nước mặn của con trai. Và khi cánh cửa thơ khép lại thi dân, văn dân đã đưa ánh mắt nhìn xuống và thắp lên bàn thờ nghệ thuật một nén nhang thơm thoang thoảng Quỳnh hương để anh hồn anh được siêu thăng thường hằng. Anh và chị đã chết để minh chứng cho thơ ca, kịch nghệ mãi mãi trường tồn bất tử cùng vạn vật trong vạn đời, vạn kiếp như chân lý kia mãi mãi chiến thắng cái xấu, cái ác trên cõi đời…

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tản mạn chuyện... thẩm thơ
Tôi không nhớ chính xác đã đọc bài tổng kết cuộc thi thơ của Xuân Diệu vào năm nào, nhưng ấn tượng về sự tinh tế của ông hoàng thơ tình này vẫn còn mãi. Có hai ví dụ về những góp ý của nhà thơ Xuân Diệu mà tôi không thể quên.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 36: Khi nhà thơ bị “vô hình” trong ca khúc phổ thơ
Có một nghịch lý đáng buồn trong đời sống âm nhạc – thơ ca: ca khúc phổ thơ thì nhiều, nhưng tên nhà thơ thường bị quên lãng.
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Khúc tri âm dịu dàng của một tâm hồn nữ tính
Tập thơ “Chữ gọi mùa trăng” của Triệu Kim Loan là thế giới nội tâm phong phú, đa chiều của một tâm hồn phụ nữ đầy trải nghiệm.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 35: Ai đang gieo “tin giả” trong văn học?
Ai mới thật sự gieo “tin giả” vào lòng công chúng? Và phải chăng chính sự thiếu minh bạch, thiếu chính trực của những người cầm bút mới là “chất độc” đầu độc niềm tin văn học hôm nay?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 34: Hư cấu nghệ thuật trong phim “Mưa đỏ”
Một tác phẩm nghệ thuật thành công không nằm ở việc tái hiện chính xác từng chi tiết, mà ở chỗ khơi dậy tình yêu nước và lòng biết ơn cha anh, để lịch sử tiếp tục sống động trong tâm thức nhiều thế hệ.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 33: Khi “cái kết nhân văn” đi nhanh hơn tâm lý nhân vật
Truyện muốn nhấn mạnh tình máu mủ nhưng lại quên rằng tình phụ tử cũng cần thời gian và sự bồi đắp. Khi sự hòa giải diễn ra quá nhanh, cái nhân văn mà tác giả mong muốn dễ trở thành “nhân văn nóng vội”, chưa kịp đi qua những ngập ngừng, day dứt – vốn là hơi thở của đời thường.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 32: Nguyễn Duy và tiếng chuông gọi tên mười loại phê bình
Bài văn tế đặc biệt của nhà thơ Nguyễn Duy – một lời cảnh tỉnh, một tiếng chuông thức tỉnh từ một thi sĩ từng trải
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 31: Trăm Ngàn – từ cẩu thả chữ nghĩa đến vụng về truyền thông
Lần này, chúng ta hãy nghe hai cây bút vốn được xem là “những kẻ lắm chuyện” – TS Hà Thanh Vân và nhà văn Đặng Chương Ngạn nói gì? Một người đào sâu từ góc độ truyền thông – giữa báo chí chính thống và mạng xã hội, một người lại lật tung những chi tiết cẩu thả và phi lý trong chính văn bản truyện.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 30: Khi ý tưởng bị đánh tráo
Bàn tròn Văn học kỳ 30 xin mời bạn đọc cùng đối thoại về câu chuyện này – không phải để truy cứu cá nhân, mà để suy nghĩ sâu xa hơn: văn chương sẽ đi về đâu, nếu lòng tin của người viết trẻ bị phản bội và lòng tin của công chúng bị bỏ rơi?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 29: Phản biện ẩn danh - Dũng khí hay sự né tránh?
Trong Bàn tròn kỳ này, câu chuyện nói về hiện tượng phản biện văn chương dưới những cái tên xa lạ, thậm chí là ẩn danh.
Xem thêm
Thi pháp của thơ ngắn – Trường hợp Mai Quỳnh Nam
Trong tất cả các thể loại văn học, thơ ca là nơi ưu tiên hàng đầu cho các hình thức ngắn gọn. Điều này không chỉ thể hiện ở độ dài khiêm tốn của các tập thơ mà còn nằm ở đặc trưng nội tại của thơ, vốn hướng đến sự cô đọng hơn so với các thể loại khác (như tiểu thuyết).
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 28: Minh bạch – từ chuyện nhỏ đến vấn đề lớn
Bàn tròn Văn học kỳ 28 không nhằm khơi gợi thị phi, càng không phải góp gậy góp đá “đánh hội đồng” một tổ chức nghề nghiệp mà chính “thư ký bàn tròn” này được vinh dự là hội viên.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 27: Công bằng trong xét giải - Từ quy chế đến thực tiễn
Giải thưởng văn học hằng năm của Hội Nhà văn Việt Nam đang đối diện một nghịch lý: quy chế một đằng, thực tế một nẻo.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” - Hành trình từ chiến trường đến nhân sinh
Lời ru bão giông của Trần Hóa không chỉ là một tập thơ, mà là bản hòa tấu của ký ức, trải nghiệm và những suy ngẫm về đời sống.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 26: Khi công bằng bị bỏ quên, im lặng trở thành câu trả lời
Bàn tròn Văn học kỳ này xin giới thiệu nội dung tóm lược của hai bức thư ngỏ – coi đó như một lời chất vấn trực diện, một thử thách đối với tính minh bạch và liêm chính của một cuộc thi văn chương quốc gia.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 25: Minh bạch là điều kiện sống còn của uy tín văn chương
Bàn tròn kỳ 25 chọn hai bài viết mới nhất của nhà văn Đặng Chương Ngạn về “thầy Uông” – thành viên Hội đồng Sơ khảo – như chất liệu để trao đổi thẳng thắn.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 24: Trăm Ngàn câu hỏi, một chữ Minh bạch
Xin mời bạn đọc cùng ngồi lại, để lắng nghe, để bàn luận, và biết đâu, để cùng trả lời câu hỏi day dứt: Liệu văn chương Việt có thể đứng thẳng bằng phẩm giá của nó, hay sẽ mãi lẫn lộn trong những “trăm ngàn” trò chơi lợi ích?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 23: Giải thưởng, danh hiệu và chuẩn mực văn chương hôm nay
Nếu ở các kỳ trước, chúng ta chủ yếu xoay quanh truyện ngắn Trăm Ngàn, thì lần này, hai ý kiến góp mặt mở rộng vấn đề sang một góc nhìn gai góc hơn: chuyện “lợi ích nhóm” trong đời sống văn học – nghệ thuật.
Xem thêm