- Nhà văn & Góc nhìn
- Chuyện nhà thơ Bùi Phan Thảo
Chuyện nhà thơ Bùi Phan Thảo
CHÂU LA VIỆT
Quê ngoại tôi ở làng Mai xá, xã Gio Mai, huyện Gio Linh, Quảng Trị. Ông bà cố ngoại tôi sinh hạ 5 người con, trong đó có một người con trai duy nhất là ông Trương Quang Phiên, sau này là Chủ tịch Quảng Trị những năm kháng chiến. Người chị cả là bà Cửu Bộ, chính là mẹ của nhà văn Nguyễn Khắc Thứ với tiểu thuyết “Trận Thanh Hương” nổi tiếng năm xưa, từng cùng các nhà văn Nguyễn Đình Thi, Võ Huy Tâm được giải thưởng của Hội nhà văn 1951.
Người em sau bà Cửu Bộ, là bà Cửu Hướng, lấy chồng ngay trong làng, tuy quê mùa mộc mạc mà đẻ ra con toàn những tướng tá nổi tiếng của quân đội, lại có người con là giáo sư kinh tế Bùi Thế Vĩnh lừng danh...Trong những người con của bà, thì cậu Bùi Hà là vất vả nhất. Là bởi cậu từ nhỏ phải ở nhà chăm sóc mẹ ở quê hương bên này giới tuyến, không thể đi tham gia kháng chiến như các anh mình, nên cả đời mưa nắng cuốc cày, sau giải phóng đi kinh tế mới tại Tây Nguyên, Đắc lắc, vỡ đất trồng rẫy, củ khoai củ sắn bốn mùa hết sức vất vả. Bùi Phan Thảo chính là con trai của cậu Hà, sau hai người anh trong đó có một người anh sau là PGS.TS ngôn ngữ. Nhưng ngày ấy tôi chỉ biết ông em này tên là Quốc Thể, chứ không biết mang tên Bùi Phan Thảo đầy chất thi ca ...
Kể lan man như vậy, để hiểu rằng trong anh em nhà tôi, Thảo là đứa em vất vả nhất. Nhưng đúng là trai làng Mai Xá uống nước sông Hiếu, có vất vả mấy rồi cũng thành thi nhân hay nghệ sỹ (Như mẹ tôi là nữ nghệ sỹ Tân Nhân từng nổi tiếng với bài Câu hò bên bến Hiền Lương hay Xa khơi, từng đi hát khắp 5 châu bốn biển, mà thuở ấu thơ cũng chăn trâu cắt cỏ nắng rọi cho tóc vàng hoe). Như có gien di truyền, lại sẵn mang truyền thống thi ca trong mình, sau này Thảo có thành thi nhân, thậm chí là thi nhân nổi tiếng, cũng không mấy ngạc nhiên.
Ít nhất vì em gọi mẹ tôi là O, cậu Nguyễn Khắc Thứ, nhà giáo Trương Quang Đệ là cậu, là chú, gọi PGS.TS ngôn ngữ Bùi Trọng Ngoãn (ĐH Đà Nẵng) là anh ruột. Truyền thống gia đình, truyền thống quê hương là đấy chứ đâu, đã ngấm vào Thảo từ khi mới lọt lòng…
Trương Nam Hương viết về con người Bùi Phan Thảo: "Trong con người Bùi Phan Thảo, cái chất Quảng Trị đậm đặc, dù anh cũng nhiều lần phải rời xa nơi chôn nhau cắt rốn để lưu lạc và từ năm 17 tuổi trở đi thì xa hẳn làng quê. Nhưng giọng nói, tố chất và dòng máu của người Quảng Trị thì vẫn luân lưu, vẫn làm nên cái tính cách Quảng Trị chân thật, yêu ghét rõ ràng, thẳng thắn trong hành xử"
*
Nhà thơ Bùi Phan Thảo với bạn bè: Các nhà thơ Nguyên Hùng, Trương Nam Hương, Phan Trung Thành.
Kể về con đường vào đời và con đường vào thi ca, Bùi Phan Thảo viết: ”Đà Nẵng được giải phóng ngày 29-3-1975 thì đầu tháng 4 năm đó tôi đã được trở lại quê nhà. Không hiểu sao tôi nhớ nhiều về khu vực cồn Go và xóm Kênh, lúc đó cồn Go còn um tùm dứa dại, gò mả, nhìn ra cánh đồng làng. Lúc đó chưa có đập cồn Go để ngăn dòng Cánh Hòm, nước mặn vào sâu khiến con sông nhỏ xanh thẫm, từ làng chính qua xóm Kênh để về Gio Việt, Gio Hải phải qua cây cầu treo, cách ngã ba sông cái không xa.
Bên bờ sông, hàng tre rủ bóng, tiếng ve râm ram, gió Tây Nam phóng khoáng thổi về. Trên chiếc chõng bên hè, tôi ngắm làng quê cho no con mắt sau những ngày phố thị. Sông trong veo, sóng vỗ nhẹ vào bờ, dăm con đò cắm sào lặng lẽ, tiếng gà trưa xao xác từ Mai Xá Thị vọng về. Bên kia sông là màu xanh cánh đồng, bờ bụi cồn Go… Biết mình sẽ được sống với làng quê yêu thương mà vui, tôi nghĩ ngợi miên man rồi chìm vào giấc trưa nồng.
Nhưng sau đó tôi được theo bà nội lên xe ra thăm o Hướng và các bác, các chú tôi, những người con của bà tham gia kháng chiến và tập kết. Ngày miền Nam giải phóng, ở Hà Nội có o Hướng công tác tại Bộ Giáo dục; bác Khuyến (Đại tá Bùi Tô Khuyến) công tác ở Tổng cục chính trị sau nhiều năm chiến đấu ở mặt trận Lào; có gia đình bác Tâm (Đại tá Bùi Thế Tâm- Nguyên chính ủy Binh tram 14 anh hùng) , bác lại đang cùng Bộ Tư lệnh 559 tất bật với bao việc giải phóng miền Nam. Chú Vĩnh với học hàm tiến sĩ, từ Đức về giảng dạy tại Trường Đại học Kinh tế kế hoạch (đến năm 1985 đổi tên thành Trường Đại học Kinh tế quốc dân). Chú Hữu công tác tại Quảng Ninh cũng về, tập trung tại nhà bác Khuyến. Có mặt chờ đón bà nội và bà Hy (em gái bà nội, mẹ của Nghệ sĩ ưu tú Tân Nhân nổi tiếng với bài “Xa khơi”, cùng ra Bắc thăm con cháu sau 21 năm xa cách), còn có bác Tường, một chiến sĩ Vệ quốc quân người Huế, là con nuôi bà nội tôi trong những ngày bộ đội trung đoàn 95 Bình Trị Thiên về đóng ở nhà dân những năm chống Pháp. Bác cũng tập kết và sống tại Hà Nội, vẫn giữ liên lạc với tình cảm là người con của gia đình.
Từ Quảng Trị, xe đi ròng rã hai ngày mới ra tới Hà Nội vào đêm 28-4-1975. Xe qua cầu Long Biên, vào phố Cửa Đông, nơi bác Khuyến sống ở khu tập thể quân đội, lúc khoảng 19 giờ tối. Các o, các bác tôi kể ở trên đã có mặt đông đủ, chờ đón bà nội tôi và bà Hy. Những vòng ôm, nước mắt ràn rụa, nụ cười rạng rỡ. Hai bà ngồi giữa, các con cháu vòng quanh, mọi người hân hoan trong niềm vui đoàn tụ. Cả khu tập thể ùa đến chia vui, mừng hai bà từ miền Nam ra thăm con cháu… Bà nội tôi nhắc đến hai người con đã hy sinh là bác Luyện trong kháng chiến chống Pháp lúc chưa có gia đình; bác Thanh trong kháng chiến chống Mỹ, nay chị Kim Quy, con gái của bác được gia đình đưa ra Bắc, học Đại học An ninh (cùng lớp với một bạn học sau là Ủy viên BCT, Đại tướng công an) cũng về gặp mặt đoàn tụ gia đình. Trong quê thì chú Ngạn đi du kích, đã hy sinh. Chú Lạch cũng mất vì chiến cuộc, còn hai người con là ba tôi đang ở quê, chú Thạch ở miền Nam đang trên đường về lại quê nhà.
Trưa 30-4-1975, tôi – thằng bé con 12 tuổi – lang thang khắp các phố cổ Hà Nội để tìm hiểu, hình dung không khí của thời Hà Nội 36 phố phường trong văn Thạch Lam, Khái Hưng, Nguyễn Tuân, Tô Hoài…, thì bỗng nghe tiếng trống rộn ràng khi vừa tới đầu phố hàng Đào, sát cạnh Hồ Gươm. Mọi người ai cũng kêu lên “Miền Nam giải phóng rồi. Sài Gòn giải phóng rồi”, rồi ôm chầm lấy nhau mà khóc cười, nhảy nhót. Nhiều người đi xe đạp trên phố Đinh Tiên Hoàng dừng lại, lắng nghe tiếng phát đi từ Đài Tiếng nói Việt Nam báo tin chiến thắng, đất nước thống nhất, mừng rỡ ôm mặt, òa vỡ nụ cười chiến thắng chan hòa nước mắt.
Tôi cũng như mọi người, reo hò, nhảy nhót. Lúc này, những chiếc ô tô từ các cơ quan ngoại giao đổ về Hồ Gươm. Trên xe mui trần, các bạn Cuba căng biểu ngữ mừng Sài Gòn giải phóng, hát say sưa “Guantanamera” và những bài ca cách mạng Việt Nam. Một không khí hân hoan tột cùng, ai cũng mừng vui, xúc động dâng trào. Hà Nội, Sài Gòn và cả nước sống trong những tháng ngày tuyệt vời hạnh phúc.
Mấy hôm sau, trước khi về đơn vị, bác Khuyến hỏi: “Con có muốn ở lại Hà Nội, đi học với các anh chị ở đây không?”. Tôi thưa: “Để con xin phép ba mạ”. Bác nói bác đã hỏi ý ba mạ con rồi và ba mạ đồng ý. Thế là tôi được rong chơi những tháng ngày hè trước khi vào học ở Trường cấp hai Thanh Quan, trên phố hàng Cót, Hà Nội. Một ngôi trường xây theo kiến trúc thời xưa, đẹp một cách trang nhã. Trường xây từ năm 1910, là trường nữ tiểu học Pháp – Việt đầu tiên của Hà Nội, mang tên Brieux (Eugènne Brieux), một nhà viết kịch nổi tiếng của nước Pháp; năm 1948 được đổi tên là Thanh Quan –một nữ sĩ tài hoa của nước ta và tên trường giữ đến bây giờ.
Bạn học cùng lớp 6D ngày đó (niên khóa 1975-1976) sau đó chừng 15 năm đổ lại, nổi tiếng nhất có Quản Quốc Hương (nhà trên phố Đường Thành) là cầu thủ của Công an Hà Nội (vô địch quốc gia 1984), em ruột của các danh thủ: Quản Trọng Hùng (Thể công), Quản Trọng Bắc (Phòng không – không quân). Thời đó mới học lớp 6 nhưng ra sân bóng dưới chân đê sông Hồng thì Quản Quốc Hương đã đá bóng rất hay, ai cũng thấy rõ tài năng của một ngôi sao bóng đá tương lai. Hồi đó anh Quản Trọng Hùng đã chơi cho Thể công trẻ, vào sân Cột Cờ, thấy anh và các đồng đội trên sân tập, lũ nhóc đều rất ngưỡng mộ, nhưng chỉ được nhìn các anh đấu tập từ xa. Còn cỡ Ba Đẻn (Nguyễn Thế Anh), Nguyễn Trọng Giáp, Nguyễn Cao Cường, Phan Văn Mỵ, Trần Văn Khánh của Thể Công… thì lại là những ngôi sao “xa tít tắp” với đám trẻ thủ đô ngày ấy, chỉ nghe người lớn kể về các anh mà hít hà thán phục.
Nhà tôi lúc này đã về lại Quảng Trị, ba mạ tuổi còn trẻ, hăng hái lao động xã hội chủ nghĩa. Ba tôi được bầu làm đội trưởng hợp tác xã, không chỉ vì học hành giỏi giang, am tường đồng áng mà còn có uy tín trong dòng tộc, tính tình hiền hậu. Những ngày này ở quê vui lắm, chi đoàn các hợp tác xã tổ chức tập văn nghệ, thi hát, diễn kịch. Khi tỉnh chủ trương làm đập ngăn sông Cánh Hòm để giữ nước ngọt cho sản xuất, thanh niên khắp nơi kéo về rất đông, nhà tôi có một nhóm từ Gio Sơn về ở lại, đêm nào cũng hát hò tưng bừng (mà các bạn biết rồi, dân Quảng Trị ai cũng mê hát, lại hát hay, nên cũng có thể coi hát là tố chất, là đặc sản của người Quảng Trị, gặp bạn hiền là phải đãi nhau bằng đặc sản quê nhà).
Có đập, không còn cây cầu treo qua xóm Kênh và nay là đường nhựa cho xe băng băng về của Việt. Đoạn sông nước ngọt trở nên nhiều rong rêu, không còn màu nước mặn đặc trưng, một thời cũng có đò ra tận cầu Bến Ngự ở làng Lại An cho người làng tôi đi chợ Cầu, huyện Gio Linh, cũng khá thuận tiện, khỏi đi bộ trên động cát, đường xa, cát bỏng bàn chân.
Tôi từ Hà Nội về làng vì nhớ nhà, nhớ quê. Tính ra, tôi ở làng cũng không nhiều, vì từ năm 1968 đã rời quê lên Đông Hà (lúc đó là thị trấn nhỏ với những ngả đường lấm bụi, nắng gió hầm hập, nhà cửa sơ sài, mái tôn vách gỗ). Dân làng tôi quen gọi đi Đông Hà là đi chợ Ga. Đi đường bộ thì xa và đường xấu, hầu hết đều chọn đi đò máy, chừng 30 phút cho 5 km đường sông. Đò chạy phành phạch dọc bờ, bên này là huyện Gio Linh, bên kia là huyện Triệu Phong, đôi bờ xanh hoa màu, cây trái… Sống ở Đông Hà mấy tháng thì cả nhà lên sống ở thị xã Quảng Trị, năm 1972 vào Đà Nẵng, năm 1975 về lại không lâu thì tôi ra Hà Nội và sau đó trở về, rồi năm 1980 lại theo ba mạ rời quê, vào Buôn Ma Thuột (Đăk Lăk). Ở lại quê những tháng ngày đó, dù ngắn ngủi nhưng lại rất dài, vì tôi được thực sự sống đời nông dân, tuổi thiếu niên trôi qua trong những nhọc nhằn để biết làm việc đồng áng, lặn lội bắt tôm cá trên đồng, cào đầy những ghe chắt chắt trên sông…”
*
Tôi nhớ một lần ngồi bù khú với Trương Nam Hương (Ông này là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu của TPHCM, nhưng lại là người gốc Huế, mẹ Bắc Ninh). Trương Nam Hương nói về Bùi Phan Thảo- Người bạn thơ thân thiết (Hình như cùng những Nguyễn Thanh Bình, Lê Minh Quốc… các ông học với nhau ở Đại học Tổng hợp Văn TPHCM khóa 95):
“Một người từng trải, dấu chân đi khắp mọi miền, đời nhiều bão giông nhưng vẫn không thiếu lòng khoan dung trong những xử sự đời sống thường ngày và trên những trang thơ. Bạn bè thân thiết đều nhận xét Bùi Phan Thảo hiền lành, luôn sống nhân hậu, có trước có sau, hết lòng với bạn bè, quan tâm tới những người thân quý. Anh thấu hiểu, sẻ chia bằng tấm chân tình”
Theo nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm, chất thơ của Bùi Phan Thảo ẩn hiện suy tưởng và siêu thực. Siêu thực là sự phát triển ở tầm cao của hiện thực. Nếu hiện thực là gốc rễ thì siêu thực là phấn hương… Thơ Bùi Phan Thảo có nhiều bài hài hòa được hai mặt này. Bên cạnh đó, thủ pháp nghệ thuật cụ thể hóa cái trừu tượng và ngược lại cùng những kết hợp từ mới lạ độc đáo thường được Bùi Phan Thảo sử dụng khá nhiều và tạo nên những hiệu ứng thẩm mỹ thú vị. "Đọc thơ Bùi Phan Thảo hơi mệt, có cảm giác như lạc vào khu rừng thâm u, nhiều khi hoang mang không biết đâu là lối chính lối phụ, rất dễ lạc đường. Bù lại đôi khi gặp những bất ngờ thú vị, đó là những câu thơ, đoạn thơ hay, bỗng dưng cái sự "mệt" kia tan biến ngay. Hình như thơ đương đại, hậu hiện đại bây giờ có chung dạng thức như vậy"!
Còn với nhà thơ - nhà nghiên cứu - phê bình Nhật Chiêu thì Bùi Phan Thảo đã hướng tìm một thứ chân chất của thơ. Là bao dung “Thơ là để nhận về bao dung. Dường như đi vào con đường thơ, Bùi Phan Thảo đã hướng tìm một thứ chân chất của thơ. Là bao dung. Bao dung thơ là không cô lập thơ. Thơ là tiếng nói đan xen trong mạng lưới của đời sống. Sống. Không có gì ngoài tương dung. Thơ nói rằng mọi chia sẻ chỉ là bề ngoài, chỉ là lầm lỡ trong cái nhìn mù sương… Trong thơ cũng như trong đời, cái này thôi thúc cái nọ. Khoảnh khắc này thôi thúc khoảnh khắc kia mà sống. Những con người. Những phù du. Những phù dung. Cứ thôi thúc nhau mà sống”.
Những lời ngợi khen trên về thơ Bùi Phan Thảo, tưởng chừng như chẳng có thể thêm một lời nào. Nhưng có một ý này thật tình tôi muốn biểu dương thơ của người em cùng quê: Quảng Trị của ta có nhiều nhà thơ lớn lắm, mà tiêu biểu đấy chính là Chế Lan Viên- Thần tượng thi ca của chúng tôi. Nhất là khi ông viết chính về quê hương Quảng Trị:
“Ôi gió Lào ơi! ngươi đừng thổi nữa
Những ruộng đói mùa, những đồng đói cỏ
Những đồi sim không đủ quả nuôi người
Cuộc sống gian lao ít tiếng nói cười
Chỉ tiếng gió mù trời chen tiếng súng’”
Những câu thơ ấy, phải nói thật rằng nhiều năm tháng là khuôn thước thi ca của tôi. Nhưng nay giờ đây, cũng quê hương Quảng Trị, đã có nhiều tiếng nói thi ca mới, trẻ trung, hiện đại, đa chiều, thế sự… vừa là kế tục truyền thống các nhà thơ cha anh đi trước, mà cũng mang hơi thở, nhịp điệu cuộc sống mới hôm nay, tiêu biểu chính là Bùi Phan Thảo mà thơ anh đang tạo nhiều âm vang và dư ba trong lòng bạn bè, đồng nghiệp và bạn đọc…
Trong anh có cả Nam và Bắc, phố xá và đồng quê, bên thắng và bên thua của một cuộc chiến, người cao nguyên và kẻ thị thành…nghĩa là có hết. Nhưng quan trọng nhất là thơ anh cũng để lại nhiều điều, nhiều dấu ấn trong lòng bạn đọc hôm nay. Thời đại mới đòi hỏi những tiếng thơ ca mới. Và lớp người trẻ các anh đang đáp ứng những đòi hỏi này…
Bình luận