- Thơ bạn thơ
- “Niềm chung soi bóng” – Hai giọng thơ cùng soi một dòng quê
“Niềm chung soi bóng” – Hai giọng thơ cùng soi một dòng quê
Tập thơ Niềm chung soi bóng là cuộc hội ngộ thi vị giữa hai người con xứ Nghệ: Bùi Thanh Minh và Phan Ngọc Quang – người từng đi qua chiến tranh, kẻ từng kinh qua bục giảng, qua bao thăng trầm đời sống, để cùng neo lại trong thơ bằng một “niềm chung”: tình quê, nghĩa đời, và lòng nhân ái.
Nếu ví tập thơ như một dòng sông, thì nửa đầu là “dòng La” – dịu dàng, man mác hương đồng gió nội của Bùi Thanh Minh; nửa sau là “dòng Ngàn Sâu” – trầm sâu với những suy tư nhân sinh của Phan Ngọc Quang. Hai dòng thơ ấy, dẫu chảy riêng, cuối cùng cũng gặp nhau nơi hợp lưu của tâm hồn: nơi “quê hương và nhân nghĩa” soi bóng xuống trang thơ.
BÙI THANH MINH – Nỗi nhớ dòng La và hương cỏ quê nhà
Thơ Bùi Thanh Minh như khúc vọng từ miền quê lam lũ, nơi dòng La xanh, bến Tam Soa, đồi Linh Cảm và cánh đồng Đông Thái đã hóa thành ký ức. Anh viết bằng sự chân thành của một người con xa xứ, lấy nỗi nhớ làm nguồn mạch, lấy quê hương làm điểm tựa để soi lại lòng mình. Mỗi bài thơ là một bức tranh đồng nội, ấm hương lúa, mùi cau, vị mật cỏ đê… giản dị mà thấm sâu.
Thơ Bùi Thanh Minh có vẻ đẹp của kí ức hòa trong hiện thực, mộc mạc mà ngân vang. Anh không dụng công cách tân, nhưng lại giữ được “giọng riêng” của một hồn thơ từng trải – nhẹ nhàng mà đằm sâu, khiến nỗi nhớ quê không chỉ là hoài niệm mà trở thành bản nguyện sống.
Sông La xanh
Tôi tìm về quê cha Đông Thái
Giữa mùa cải vàng nắng giêng hai
Sông La xanh đôi bờ bến bãi
Con đê dài như nỗi nhớ ai...
Mẹ tôi giờ không còn dệt vải
Người đã về với cõi thiên thai
Lụa Châu Phong không còn tồn tại?
Chợ Thượng buồn vắng khách vãng lai
Quê mình giờ vắng bóng trẻ trai
Chỉ còn sót người già ở lại
Thị Trấn xưa xóm đạo vui thế?
Em đi rồi, Chúa cũng xa xôi...
Tôi trở về thăm tuổi thơ tôi
Hương cò mật giờ đâu còn nữa?
Ghé Tam Soa chợt nhớ đò đưa
Chiều một mình lặng lẽ trong mưa...
Sông La xanh, xanh tự ngày xưa
Tôi trở về lỡ chuyến đò trưa...
Mẹ ơi
Một đời khoác áo tơi
Qua mùa đông rồi hạ,
Như cánh cò không mỏi
Mẹ chẳng ngại đồng xa…
Hiền dịu gái sông La
Chăn tơ và dệt lụa,
Cha, trai làng Đông Thái
Theo cách mạng bôn ba…
Đêm kể chuyện ngày xưa
Thuở mẹ còn rất trẻ,
Pháp bắt cha trong Huế
Rồi đày lên Buôn Mê.
Một mình gánh bộn bề
Nuôi con và chăm bà,
Gian nan rồi vất vả
Không một lời kêu ca.
Khi cải cách lấy nhà
Mắt mẹ buồn im lặng,
Làm sao con quên được
Năm tháng này mẹ ơi.
Đêm con ra Hà Nội
Mẹ tiễn chân xuống đò,
Dòng La mưa nức nở
Ướt đẫm cỏ bờ đê.
Chiều nay con trở về
Một mình trong lặng lẽ,
Thì thầm con gọi khẽ
Mẹ ơi! Mẹ có nghe…
Mưa vẫn rơi não nề
Trắng đôi bờ sông quê
Phải vì ta thiếu mẹ
Câu thơ buồn tái tê?
Hương cỏ mật đê
Em như hương cỏ mật đê
Thảo thơm nhè nhẹ mà mê mẩn hoài,
Cỏ non xanh mướt tơ trời
Để người đi mãi nhớ người chân quê
Đê giờ đâu còn là đê
Mà thành lộ nhỏ khoác bê – tông rồi,
Đau lòng ta lắm người ơi
Còn đâu hương cỏ một thời ấu thơ.
Bốn bề sỏi đá nhấp nhô
Người xưa nay đã qua đò đi xa,
Chiều buồn như nước dòng La
Trách ai lỡ hẹn để ta ngóng chờ.
Thôi đành gửi gió câu thơ
Cùng hương cỏ úa cho bờ sông quê,
Em như hương cỏ mật đê
Thảo thơm nhè nhẹ mà tê tái lòng.
Ngược dòng La
Theo cánh buồm ngược dòng La
Trở về Linh Cảm quê cha họ Bùi
Mây bay én lượn một trời
Sông xanh cát trắng bồi hồi lòng ta.
Đây rồi Tùng Ảnh, Tam Soa
Đường vô Đông Thái, đường qua Yên Hồ
Đồng trưa vắng bóng cánh cò
Bến Dinh còn đó, giọng hò còn đâu?
Tìm hoài bãi mía nương dâu
Đâu khung cửi mẹ dệt câu giặm buồn,
Tôi ngồi xuống đất nhớ thương
Muốn ôm tất cả vào nương tay mình.
Quê hương nặng nghĩa ân tình
Đi mô cũng nhớ muốn tìm về thăm,
Một thời cải cách gian nan
Một thời bom đạn nát tan cửa nhà.
Con như thiếu vắng mẹ cha
Tha phương cầu thực biết bà con đâu,
Ơi dòng sâu của Ngàn Sâu
Cuốn giùm tôi nỗi sầu đau lệ nhòa.
Đêm nay thức với dòng La
Nghe sông kể chuyện nắng mưa quê mình.
PHAN NGỌC QUANG – Bục giảng, nhân duyên và lòng nhân ái
Nếu thơ Bùi Thanh Minh là tiếng vọng quê, thì thơ Phan Ngọc Quang là tiếng nói của một người thầy – từng đứng trên bục giảng, từng đi qua chiến tranh, và nay vẫn giữ trong lòng “niềm tin hiền lương”. Ở anh, thơ không ồn ào triết lý, mà thấm tính nhân văn – như những “hạt gạo ATM” nuôi lớn lòng thương người giữa đời thường.
Thơ Phan Ngọc Quang có sức gợi của một con tim nhân hậu: mỗi câu thơ như một “tấm lòng nghề giáo”, giàu trải nghiệm và thấm chất đạo lý sống. Từ Bục giảng đến Máy ATM gạo, từ Giếng quê đến Nhớ cha mùa tri ân, ta thấy rõ tâm thế một người thơ – thầy – công dân, luôn soi bóng nhân tâm vào cuộc sống.
Bục giảng
Tặng trường THPT dân lập Cao Lãnh
Chiều nay sau hồi trống tan trường
Tiếng cười các em xa dần trong gió thoảng,
Còn lại mình ta trên bục giảng
Nghe trái tim vang nhịp đập lạ thường,
Đất như tỏa hơi nồng ấm dưới chân
Nơi khoảnh nhỏ hàng ngày mình đang đứng.
Cái khoảng đất không biết bao lần đưa ta vào bài giảng
Như những nhà nông bên đồng ruộng cần cù,
Tay âm thầm gieo hạt chữ mỗi mùa
Để hôm sau bội thu ngày gặt hái.
Cái bục giảng nơi nào cũng thấp
Nhưng phải nhiều năm đèn sách mới đứng được nơi này,
Cái khoảng đất không cao nhưng đã có vài người
Không giữ được thăng bằng đứng lên là vấp té.
Cái bục giảng lặng im hiền lành là thế
Đến hôm nay mới hiểu được bao điều,
Đứng ở trên cao mà thấp hơn đồng nghiệp một cái đầu
Phải biết quý chút đất dưới chân mình đang được đứng.
Đã có lúc rời bảng đen đi xuống
Giữa thầy trò không còn khoảng cách vời xa,
Nhưng viên phấn đang cầm vẫn cứ nhắc ta
Không được quên phía có bảng đen
Cùng những trang giáo án.
Bục giảng ơi, suốt đời người im lặng
Nhưng từ nơi đây chúng tôi vẫn cứ tiếp lời.
Cao Lãnh 1990
Giếng quê
Tặng chú Phan Tam Cương
Một đời vành vành khuôn trăng
Giếng tròn đầy nước long lanh mặt người,
Dù nằm xa tít biển khơi
Mà dòng nước mát đêm ngày đầy dâng.
Nước trong về tận xóm thôn
Rau xanh, cơm trắng làm nên bữa nghèo;
Tiếng gàu khua nhẹ giữa chiều
Cho đôi thùng nước dập dìu bước chân.
Giếng soi mặt của thế nhân
Giếng soi mưa nắng tảo tần mẹ cha,
Giếng soi hình bóng ông bà
Giếng soi khuôn mặt lụa là em tôi.
Giếng tròn chở trọn niềm vui
Dồn bao cơn khát vào nơi đáy gàu,
Giếng thương rát bỏng gió Lào
Giành nguồn nước sạch mát bao nắng chiều.
Giếng thương lưng mẹ đêm thâu
Cho vơi cái nóng nung vào thịt da,
Giếng làng sóng sánh hồn quê
Dù đi xa vẫn nhớ về chốn xưa.
Cho dù mưa nắng đi qua
Giếng quê chung thủy như là tình anh,
Lời thề gửi trọn trăng thanh
Giếng quê giữ mãi mối tình thuở xưa.
Dấu chân em đứng chưa mờ
Tay anh kéo nước để chờ đợi nhau,
Tưởng là đáy giếng thậm sâu
Ai ngờ giếng cạn để đau chuyện tình,
Tơ vương anh nối cho mình
Ai làm đứt đoạn tiếc thầm sợi dây,
Ước chi có được một ngày
Em về soi giếng trời mây ngắm nhìn.
Giếng làng giữ mãi trong tim
Hóa thành máu đỏ thắm hồn đất quê.
Máy ATM gạo
Viết cho Hoàng Tuấn Anh
Những “viên ngọc trời” theo dòng máng chảy
Góp bữa cơm thơm đến tận người nghèo,
Chiếc máy của anh không có tiền tự động
Hạt gạo tròn thương cảm nỗi gieo neo.
Thẻ căn cước là phận đời cơ nhỡ
Thiếu miếng ăn phải chạy bữa mỗi ngày,
Mật khẩu chung: “Hãy - làm - ơn - cứu - độ”
Gạo thương người, gạo trắng đến tận tay.
Máy ATM không cần nhận dạng
Bởi chén cơm mùa dịch chẳng dễ dàng,
Khi cái đói đã ra lời cầu khẩn
Đến đất trời cũng phải biết cưu mang.
Máy ATM của anh buổi đầu hiện diện
Xóm lao động nghèo thêm ông Bụt, bà Tiên
Truyện ngày xưa giúp phận hiền bao điều ước
Cổ tích hôm nay lấp lánh giữa đời thường.
Máy ATM nhiều theo cấp số cộng
Sài Gòn vươn xa đến Huế, Tây Nguyên...
Lòng nhân ái tựa mây ngàn trải rộng
Máy gieo trồng từng đốm sáng nhân văn.
Bát cháo cầm hơi người đau trên giường bệnh
Hạt gạo ATM từ bếp hóa thành,
Đàn con mỗi ngày ngồi chờ cơm mẹ nấu
Ăn bữa no rồi đôi mắt trẻ long lanh.
Lòng tốt bây giờ không còn đơn độc nữa
Nhiều bàn tay nguyện làm bạn đồng hành.
Chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ
Hạt gạo ATM quê hương thơm dẻo nghĩa tình.
Tân Bình 2020