- Thơ bạn thơ
- Nhà thơ Trần Kim Dung với “Những dấu chân thơ vẫn ruổi rong”
Nhà thơ Trần Kim Dung với “Những dấu chân thơ vẫn ruổi rong”
Với tám mươi năm cuộc đời, nhà giáo nhà thơ Trần Kim Dung đã biến mỗi bước chân thành một vần thơ. Tập “Những dấu chân thơ vẫn ruổi rong” vì thế không chỉ là bản đồ du lịch, mà là tấm bản đồ tâm linh Việt: từ Yên Tử – Suối Giải Oan, Đường Lâm đá ong, đến Mẹ Phi Yến ở Côn Đảo, Bạch Đằng, Móng Cái, Sơn Trà, Hỏa Lò, Long Biên…

Thơ Trần Kim Dung chân phương, không cầu kỳ vần điệu. Thi ảnh của bà chân thực như những lát cắt tư liệu: “đây tường đá ong bền bỉ”, “gặp bóng Mỵ Châu thấp thoáng”, “những mái chùa treo trên vách đá”, “bến đò khuya sớm nắng mưa đâu rồi?”.
Tứ thơ của bà là sự giao hòa giữa kể, thấy và chiêm nghiệm. Triết lý không cao siêu mà rất đời, rất thực: chạm vào một viên đá ong cũng là chạm vào nghìn năm lịch sử. Mỗi trang thơ như khiến lịch sử sống dậy từ đất, từ những vùng đất vẫn vọng tiếng cha ông trong từng lớp đá ong, khúc sông hay gò đồi lộng gió.
Có những bài thơ không cần tìm cái lạ, không cường điệu cảm xúc – chỉ nhẹ nhàng bước trên những dấu chân ấy, để lắng nghe đất nước thầm thì.
Năm bài thơ dưới đây rút từ tập “Những dấu chân thơ vẫn ruổi rong” đang in – tựa năm 'tọa độ tâm linh' – sẽ dẫn lối quá khứ chạm hiện tại, và ký ức neo đậu trong lòng người đọc.

Nhà thơ Trần Kim Dung
Yên Tử
Trở về miền linh thiêng cổ tích
Nơi non cao, mây gió bồng bềnh
Gặp những “đại lão cội cây” trăm năm tu tập
Và những am thiền trong trúc lâm xanh
Đây Suối Giải Oan
ranh giới Đạo - Đời ngàn năm trong vắt
Thấp thoáng xa xưa bóng mỹ nữ, cung tần
Ai ngăn được bước chân người hành đạo
Lên cõi thiền cao vút đỉnh Bạch Vân?(1)
Đây Một Mái chùa treo trên vách đá
Nửa ẩn hang sâu, nửa lợp mây ngàn
Suối rì rầm trang kinh người xưa để lại
“Mai Lão”bên thềm thắp sáng cả thiền am.
Gặp những “Đại Lão Tùng”
bẩy trăm năm nắng gió
Râu tóc vẫn xanh, thân thẳng đứng ngóng trời
Che mát rượi ngả đường về Tháp Tổ
Với bạt ngàn hoa đại trắng tinh khôi
Đây dốc Hoa Yên, trúc mai thăm thẳm
Nguyễn Trãi thơ đề đã sáu trăm năm:
“Giáo xanh nghìn mẫu thành che chắn
Rèm rủ không gian đá chất chồng” (2)
Và đây,
Chùa Hoa Yên ngự trên thanh long bạch hổ
Lồng lộng Lầu chuông, Lầu trống, Tam Tòa
Phật Hoàng ngày ngày vẫn truyền kinh tải đạo
“Lão Đại” trước thềm nở trắng những sao xa.
Đây Chùa Đồng, nơi giao thoa Trời Đất
Khói hương hoa ngút ngát quyện mây trời
Mái cong vén sương, vén mây, bay lên đỉnh núi
Chuông khánh ngân dài
nghiêng ngả khắp trùng khơi.
Tôi chắp tay trước Ngài
Tượng Phật Hoàng thiền trên non cao vời vợi
Ngài tự tại ung dung
sau hai chiến thắng khải hoàn
Nhấp ngụm sương mai
gối đầu vào mây nơi Ngọa Vân am trúc
Đức Phật trở về ngự trong cõi nhân gian.
Yên Tử - 2022
(1) Theo truyền thuyết xưa một số cung tần mỹ nữ đã đến đây can ngăn việc Vua đi tu nhưng không được nên đã trẫm mình xuống suối để tỏ lòng trung thành. Về sau Vua có cho lập đàn giải oan, từ đó có tên là Suối Giải oan.
(2) Hai câu này trích trong bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi - Thế kỷ 15 “Đề Yên Tử sơn - Hoa Yên Tự”:
“Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải thạch châu lưu lạc bán không”
- Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm dịch sang tiếng Việt:
Đề ở chùa Hoa Yên – núi Yên Tử
“Đỉnh cao Yên Tử ngất tầng không
Vầng lửa năm canh đã rực hồng
Vũ trụ tầm nhìn xuyên biển lớn
Tiếng cười rung động lớp mây bông
Giáo xanh nghìn mẫu thành che chắn
Rèm rủ không gian đá chất chồng
Miếu cũ vua Trần còn lưu mãi
Chân mây ánh bạc giữa mênh mông”.

Nhà thơ Lê Thiếu Nhơn trước một ngôi đình ở Làng cổ Đường Lâm - Ảnh NH.
Làng cổ Đường Lâm
Những bức tường đá ong bền bỉ
Bao nhiêu chuyện xưa cất giấu trong lòng
Những chum tương ủ men kín tiếng
Hương ngọt ngào làng xóm trăm năm
Đây cổng làng nhuộm giông bão rêu phong
Mái ngói cổ hiền lành trầm lặng
Đa trăm tuổi xòe ô che nắng
Đón bốn phương trời nườm nượp về thăm
Vó ngựa đâu đây còn lộp cộp đá ong
Voi của Ngô Vương nghỉ bên rặng ruối
Ruối cổ thụ xanh nghìn năm tuổi
Như vẫn đứng chờ voi ngựa dừng chân
Có phải ngày xưa, đây rừng rậm Đường Lâm
Có “Bố Cái Đại Vương” giết hổ?
Có Ngô Quyền mưu cao, trí tỏ
Sông Bạch Đằng nhấn sạch lũ Hoàng Thao?
Mông Phụ, Cam Lâm nhà cổ mời chào
Mây trắng Xứ Đoài ghé thăm Chùa Mía
Giếng nước, sân đình còn nguyên dáng vẻ
Nơi đá khô cằn sinh được hai Vua.
Làng cổ Đường Lâm rộn rã sớm trưa
Tường đá ong như lá phổi
phập phồng ngàn năm vẫn thở...
Đường Lâm - Tháng 3/2025
An Sơn Miếu
Chiều Côn Đảo dưới chân núi biếc
Miếu An Sơn nghi ngút hương trầm*
Khách thắp nhang rồi trong tĩnh lặng
Tưởng nhớ về một số phận thương tâm
“Cây cải về trời, để lại rau răm…”
Câu ca cổ nghe sao mà chua xót
Hoàng Tử Cải bị bỏ sâu đáy nước
Mẹ bị giam cầm cô quạnh trong hang
Cứ ngỡ là vợ Vua, gấm vóc bạc vàng
Còn nghĩ gì đến tình dân, nghĩa nước
Vậy mà, bà dám khuyên can sách lược
Để nhận về sự trừng phạt đớn đau
Nơi đảo xa sóng vỗ bạc đầu
An Sơn Miếu, người đời sau vẫn nhớ
Lê Thị Răm, người Thứ Phi một thuở
Trọn cuộc đời giữ hai chữ trung trinh
Lịch sử đi qua, dâu bể nổi chìm
Chân núi nơi đây, dấu xưa còn lại
Một câu chuyện nhân tình thế thái:
“Cây cải về trời, còn lại rau răm...”
Miếu An Sơn vẫn nghi ngút hương trầm
Khách đến thắp ngang, đi trong lặng lẽ.
Côn Đảo 2022
* An Sơn Miếu được xây dựng năm 1785 tại Côn Đảo để thờ bà Phi Yến (tên thật là Lê Thị Răm, vợ vua Gia Long).
Địa đầu Móng Cái
Từ rừng đước Cà Mau đất mũi
Ta đến rừng dương Móng Cái địa đầu
Nơi nét bút đầu tiên chữ S
Ngàn năm rồi đứng vững trước bể dâu
Đây Mũi Ngọc trông ra Biển Đông
Đảo Vĩnh Thực, Hải Đăng chong mắt dõi
Thuyền cá giong buồm, xôn xao mẻ lưới
Con nục, con hồng mắt biếc đầy khoang
Nghe nơi đây sóng biển dâng tràn
Trần Khánh Dư lẫy lừng chiến thắng
Cả đoàn thuyền lương quân Nguyên chìm đắm
Bạt vía, kinh hồn nơi Cửa Lục, Vạn Ninh
Đây Trà Cổ trang nghiêm gan góc một mái đình
Sáu trăm năm vẫn vững vàng vóc dáng
Ngói cổ, đao đình như con thuyền năm tháng
Chốn biên thùy hồn Việt vẫn giữ nguyên
Đây sông Ka Long như dải lụa mềm
Vắt ngang qua một miền biên giới
Cầu Bắc Luân xưa thanh tân trở lại
Cột mốc biên thùy sừng sững oai nghiêm
Đây Pò Hèn ghi nhớ những ngày đêm
Khói lửa ngút trời bên kia tràn tới
Chúng đốt phá cả một miền biên giới
Bao nhiêu người đã anh dũng hy sinh
Tượng đài Pò Hèn cao vút trời xanh
Xin được cúi đầu nơi biên cương Tổ Quốc
Ta đứng đây trông về Cà Mau rừng đước
Thấy bờ biển chữ S vững chắc trước Biển Đông
Lưỡi bò kia chín đoạn hãy coi chừng
Những bài học từ ngàn xưa của cha ông còn đó!
Móng Cái 11-2022

Đoàn VNS từ TP. Hồ Chí Minh tham quan Di tích Hỏa Lò, 10/2025.
Di tích Hỏa Lò
Đến Hỏa Lò di tích xưa tăm tối
Gặp bàng xanh tuổi đã trăm năm
Nhân chứng sống của một thời nô lệ
Dẫn tôi thăm nơi xiềng xích giam cầm.
Trại D tối om, chân tù nghẹt trong cùm
Cơm gạo mốc tháng ngày kiệt sức
Đêm đông thấu xương, nền nhà giá buốt
Ngột ngạt ngày hè, ngủ bên cạnh “hố tiêu”
Mấy bạn khách Tây lặng lẽ bước đều
Đây buồng tử tù, chân tay cùm chặt
Máy chém đó, bỗng mồ hôi lạnh toát
Nghe tiếng bao người máu chảy đầu rơi ...
Khu trại giam phụ nữ rợn người
Con theo mẹ lê la trong ngục tối
Những dây điện, máy điện tra buốt nhói
Bao nhiêu các bà quằn quại nơi đây?
Bàng kể cho nghe, xưa mảnh đất này
Là làng gốm ngày đêm đỏ lửa
Chúng phá hết làng, xây nhà tù ở đó
Hỏa Lò trở thành nơi lạnh buốt xương
Lá bàng xưa rơi rụng xuống vườn
Người tù nhặt làm thuốc cho nhau uống
Có những chiến sĩ
tìm được cống ngầm chui xuống
Thoát ra ngoài theo cách mạng thành công.
Ôi, đi loanh quanh chưa hết một vòng
Mà cảm xúc đã trào dâng quặn thắt
Xin hẹn với bàng, lần sau đi khắp
Để hiểu thêm về “địa ngục trần gian”
Dâng nén tâm nhang, khói tỏa ngọn bàng
Như thấy bóng những linh hồn đã khuất
Họ trở về cùng cây bàng đón khách
Nhắc nhở đời, ghi nhớ không quên
Di tích Hỏa Lò như một chấm tròn đen
Gửi lại một phần để đời sau còn nhớ.
Di tích Hỏa Lò Hà Nội, 11-2023