TIN TỨC
icon bar

Giới thiệu tập thơ “Gửi những yêu thương” | Kao Sơn

Người đăng: nguyenhung
Ngày đăng: 2022-05-30 18:30:42
mail facebook google pos stwis
3859 lượt xem

Đọc “Gửi những yêu thương” của Lương Tử Miên, NXB Hội Nhà văn, năm 2021.

KAO SƠN

Lương Tử Miên vốn là một người lính. Những năm đất nước còn chiến tranh ông đã từng có mặt trên hầu hết các chiến trường miền Nam khói lửa. Nhưng ông cũng là người yêu thơ, từng làm thơ ngay từ khi còn ở trong quân ngũ. Khi đất nước thống nhất, trở về cuộc sống đời thường, ông vẫn giữ được cho mình tình yêu đặc biệt dành cho Thơ. Năm 2015 Lương Tử Miên ra mắt độc giả yêu thơ tập thơ thứ 2: Mưa bay cuối mùa. Ở tập thơ này Lương Tử Miên chủ yếu nói về tình yêu với quê hương, với người thân và những nghiền ngẫm, những suy tư trước cuộc đời cùng những chiêm nghiệm về cõi Người. Và cho đến tận hôm nay, nghĩa là sau 6 năm mới lại có tập thứ 3: Gửi những yêu thương. Vẫn có những mảng dành cho yêu thương đời thường nhưng chỉ chiếm một phần nhỏ. Còn lại đa số là tập hợp, gom góp những bài thơ hay nhất của ông viết về đời lính.

Lương Tử Miên làm thơ chậm. Trong tư thế một người lính trong đoàn quân chiến thắng, trở về với cuộc sống đời thường khi tuổi đã xé chiều, cảm xúc trước mọi khía cạnh của cuộc sống vẫn còn đầy ắp nhưng biểu hiện thì đã khác. Mọi suy nghĩ đã trở nên sâu lắng hơn, trầm tĩnh hơn. Vẫn là Người lính làm Thơ, nhưng ông không tụng ca chiến thắng kiểu một chiều, không thi vị hóa nỗi đau và sự hy sinh.

Bằng cái nhìn và tấm lòng của một người yêu thơ và làm thơ thơ đích thực, ông đứng trong nhân quần để cảm và nhận. Ông nói về cái tôi, nhưng không phải cái Tôi bí hiểm, mịt mờ, phức tạp mà là cái tôi của Cộng đồng, mang trong tim trách nhiêm cộng đồng. Thơ Lương Tử Miên bây giờ giống như những con sóng, vẫn đi từ nơi phải đi, vẫn đến ở chỗ phải đến nhưng không ồn ã nổi trên mặt biển nữa mà lắng xuống thật sâu thành từng đợt sóng ngầm.

Một anh con nhà nghèo vừa chớm tuổi đôi mươi/Chưa kịp lớn đã bập vào chiếntrận/ Chữ nghĩa không quen bằng quen súng đạn / Viết thư cho người yêu bằngnắn nót i, tờ… là hình ảnh của tuổi xuân Lương Tử Miên cùng lớp trai trẻ những năm đất nước có chiến tranh. Cả 10 cô gái trẻ hy sinh ở Ngã ba Đồng Lộc trong đội Thanh niên xung phong Mười trái tim sáng trong như ngọc/ Chưa trọn một lầnyêu / Và tất cả chưa chồng/... Rồi hàng triệu những cô gái khác trên khắp các làng xóm tự mình Ba đảm đang làm thay mọi việc cho những người đàn ông yên lòng ra trận: Lặng thầm em - Đóa hoa cải ven sông/ Lặng thầm nở đợi người ra trận/ Bằng màu vàng quê kiểng, thủy chung… Chắc chắn không bao giờ, không bút mực nào có thể kể hết những hy sinh to lớn mà cả mấy thế hệ dân Việt đã trải qua trong giai đoạn chiến tranh chống Mỹ cứu nước khi ấy. Nhưng cũng giai đoạn ấy, người ta chỉ nói đến hy sinh, ít nói đến Được - Mất. Từ Được - Mất chỉ thực sự hiện diện khi chiến tranh kết thúc và người lính đã trở về.

Có thể nói những người lính trở về sau chiến tranh là những người có những tâm trạng phức tạp nhất. Khi chiến đấu ở chiến trường Chẳng ai toan tính gì về cuộc sống mai sau/ Sướng hay khổ nằm ngoài tầm suy nghĩ

Khi ấy với người lính, mọi thứ, lí tưởng, mục đích chiến đấu, kể cả cái chết cũng rõ ràng, minh bạch. Có một nguyên nhân rất quan trọng giúp người lính luôn đứng vững để vượt lên đó làhọ luôn thấy mình đứng trong đội ngũ, bên mình luôn có đồng đội, đồng chí Thấy chặng đường đi không đơn độc. Chuyện chia nhau ngụm nước cuối cùng trong chiến hào, chuyện lấy thân mình chắn đạn cho đồng đội là bình thường.

Nhưng Hòa bình thì lại khác. Những cánh rừng trụi lá đã lên xanh/ Những chết chóc hoang tàn qua chiến tranh/ Chỉ là những kỷ niệm đau buồn/ của một thời trận mạc. Hy vọng mở ra. Sự an bình sẽ là một bù đắp. Nhưng nhiều người không thể ngờ cuộc chiến hóa ra vẫn tiếp diễn. Kí ức và hậu quả của cuộc chiến cam go dai dẳng đã để lại những vết thương có khi còn đáng sợ hơn cái chết: Người chồng trở về, thay vì vòng tay của người vợ giang rộng đón là vòng khói nhang lạnh lẽo Làn khói bay ngập ngừng như muốn khóc… Rồi những đứa trẻ bị nhiễm chất độc da cam. Những cô gái quê sau bao năm chờ tin người ra trận một chiều bỗng hóa Vọng Phu. Người mẹ già lặng lẽ đi xa trong tuyệt vọng sau bao đêm mắt nhòa ngồi ngóng tin con trước màn hình tivi trong chương trình Đi tìm đồng đội…Tất cả những nỗi đau đó, nhiều người vẫn có thể lí giải bằng cách gán lỗi cho chiến tranh.

Nhưng còn có một thực tế nghiệt ngã khác. Chiến trường được thay bằng Thương trường. Ranh giới địch ta hóa ra vẫn tồn tại. Chỉ khác bộ mặt. Và những người lính vốn xưa là anh trai làng quen cầm cày đi sau con trâu, khi vào lính chỉ quen với tay súng bây giờ cay đắng nhận ra mình ít chữ lặng lẽ nối đoàn dài trước cổng các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp có vốn làm ăn với nước ngoài để chờ nộp đơn mong xin được làm một chân bảo vệ. Nhòe nhoẹt hào quang nhòe nhoẹt vàng son/Giữa bề bộn tình đời - anh thợ cày ngơ ngác/ Như người ngoài hành tinh - cứ luôn luôn đi lạc/ Lại bắt đầu từ bài học vỡ lòng thôi. Nỗi đau nói tiếp nỗi đau. Có một nỗi đau mà nhiều người lính không mấy người ngờ tới đó là tình đồng đội Lạc nhau trong chiến tranh / Nơi ngút ngàn xanh lá/ Khi dấu xưa dần rõ/ Lại lạc tronghòa bình. Cái “Chiến trường – Thương trường” đã làm cho lối sống thực dụng đang tràn ngập mọi hang cùng ngõ hẻm, lan và làm hoen ố đến cả những điềut hiêng liêng nhất. Đồng đội một thời đứa sống đứa hy sinh/ Đứa nghèo đói đứa tột cùng danh vọng/ Lớp con cháu phân thành hai cực sống/ Đứa con trời, đứa rách rưới lem nhem. Có lẽ đây là một nỗi đau khó lí giải nhất với người lính. Bóng tố iẩn sau mặt trái của tấm huân chương bắt đầu dần lộ diện. Hy vọng sau chiến tranh sẽ được thấy một xã hội mới với tất cả những tốt đẹp đã từng nghe, đã từng mơ: Công bằng, bình đẳng, bác ái có vẻ như đã khép. Cùng một xuất phát điểm giống nhau nhưng số phận mỗi người bây giờ theo “cơ chế” lại có gì đó giống như hạt thóc đã qua sàng sảy: Hạt gạo được nuông chiều và đánh bóng lên/ Thành mónhàng được chào mời định giá/ Tấm cám lui về trong âm thàm thật giả/ Trong cân đo khinh trọng của lòng người. Nhiều điều tốt đẹp đang dần tuột khỏi tầm tay với.

Mình đang đi trên chặng cuối đường gần/ Tháp thoáng biển chỉ đường: Cỗ máy thời gian xê dịch/ Nhiều bạn tôi không về đến đích/ Chỉ đi trên đoạn đường xa, rồi nằm lại chiến trường. Đã may mắn hơn bạn, nhưng cảm giác cô đơn lạc lõng bám riết. Nắm cơm vắt thấm máu thành Quảng Trị/ Ai ngờ đâu còn nghẹn đến bây giờ. Vâng, nhưng đó là nghẹn cho mình và cả cho người nằm xuống. Hai vết thương trong một con người/ Vết thương thịt da - vét thương cuộc đời/ Vãn daidẳng suốt những năm còn lại.

Kế đó là những hoang mang nghi ngờ giằng xé. Bỗng thấy luyến tiếc những ngày đã qua, ngày mà cùng đồng đội bước vào trận chiến với một trái tim sục sôi khát vọng hy sinh và hiến dâng. Ngày ấy biết chặng cuối con đường còn xa mà vẫn tin, vẫn yêu. Còn bây giờ… Sợ chặng đường xa biến thành ảo ảnh, sợ nhầm đường vàtự hỏi Có ai như mình không/ Cả tin điều chẳng thành sự thật bao giờ/ Một conđường vẽ ra từ mơ ước! Cuối cùng Cay đắng nhận ra bị người cướp mất/ Niềm tin/Thanh xuân/ Tình yêu/ và những ước mơ.

Không còn cái nhìn đầy ảo tưởng về sự bất biến. Sẽ có rất nhiều câu hỏi được đặt ra về những băn khăn, trăn trở, tìm lời giải về nhân thế, về cái đích đến, về những tròn đầy hay khiếm khuyết, cái được, cái mất. Và thảng thốt: Đục trong giữa cõi đời này/ Còn nhiều không những vòng tay bạn bè. Rõ ràng cái lo nhất vẫn là cái lovè tình người ấm lạnh.


Nhà văn Kao Sơn (phải) và nhà thơ Lương Tử Miên (trái)

Rất may, có thể là cho Lương Tử Miên. Có thể là cho Thơ. Rằng qua bao chiêm nghiệm về thăng trầm cõi đời và cõi người, cuối cùng ông vẫn cân bằng lại được, không bị gục ngã. Ba ngoái nhìn về chân trời cũ/ Nơi giăng giăng mùa mưa TrườngSon/ Nơi thủy chung màu xanh Trường Sơn – Ông tâm sự với con và thú nhận sự mình đã vin vào quá khứ mà qua tháng ngày bão giông. Và ông cũng vừa để lí giải, vừa là một nhắn nhủ tới thế hệ sau Đừng ám ảnh tâm tư của lớp người đi trước/Làm sỏi đá lót đường cho cháu con dấn bước/ Đến một chân trời sáng sủa hơn hôm nay... Câu thơ như một tổng kết, một gói ghém của tâm tư cả một thế hệ anh hùng đã ngã xuống, hi sinh cho tổ quốc, cho hôm nay. Đó cũng chính là bản lĩnh của người lính.

Văn là Người. Đọc Lương Tử Miên nhận ra ông dù trong quân ngũ hay khi đã trởvề với cuộc sống đời thường thì về bản chất ông vẫn luôn là một người trung thực.

Ông đã lấy cả cuộc đời mình ra để cống hiến, đẻ hy sinh. Và ông lấy tâm hồn mình ra để làm thơ. Gom góp suốt 45 năm những bài thơ viết về người lính, có cái nhìn buồn nhưng không phải để mất ý chí mà tích thành những yêu thương để gửi đời, gửi bạn bè, gửi lại cho con cháu mai sau hiểu rõ hơn về những ngày cha ông chúng đã sống.

Đơn giản nghĩ : Mình và đồng đội
Sống chết cho Tổ quốc ngẩng cao đầu
Xin mùa thu đừng vàng mà hãy cứ ngát xanh
Cứ trong trẻo một sắc màu nguyên thủy
Xin cuộc sống hãy êm đềm bình dị
Để có chút ngọt ngào sau một chuỗi đắng cay.

Chân thành cám ơn và xin được cùng độc giả chia sẻ, đồng cảm cùng Lương Tử Miên - Người lính làm thơ.

Sài Gòn, tháng 10 năm 2021.

Bình luận

Để lại comment

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bàn tròn kỳ 26: Khi công bằng bị bỏ quên, im lặng trở thành câu trả lời
Bàn tròn Văn học kỳ này xin giới thiệu nội dung tóm lược của hai bức thư ngỏ – coi đó như một lời chất vấn trực diện, một thử thách đối với tính minh bạch và liêm chính của một cuộc thi văn chương quốc gia.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 25: Minh bạch là điều kiện sống còn của uy tín văn chương
Bàn tròn kỳ 25 chọn hai bài viết mới nhất của nhà văn Đặng Chương Ngạn về “thầy Uông” – thành viên Hội đồng Sơ khảo – như chất liệu để trao đổi thẳng thắn.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 24: Trăm Ngàn câu hỏi, một chữ Minh bạch
Xin mời bạn đọc cùng ngồi lại, để lắng nghe, để bàn luận, và biết đâu, để cùng trả lời câu hỏi day dứt: Liệu văn chương Việt có thể đứng thẳng bằng phẩm giá của nó, hay sẽ mãi lẫn lộn trong những “trăm ngàn” trò chơi lợi ích?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 23: Giải thưởng, danh hiệu và chuẩn mực văn chương hôm nay
Nếu ở các kỳ trước, chúng ta chủ yếu xoay quanh truyện ngắn Trăm Ngàn, thì lần này, hai ý kiến góp mặt mở rộng vấn đề sang một góc nhìn gai góc hơn: chuyện “lợi ích nhóm” trong đời sống văn học – nghệ thuật.
Xem thêm
Những câu thơ thức “canh chừng lãng quên”
Với cảm hứng từ hai tứ thơ độc đáo – Cõng bạn đi chơi của Vương Cường và Dìu mẹ đi thăm mộ mình của Hồ Minh Tâm – bài viết của Bùi Sỹ Hoa (đăng trên Tạp chí Sông Lam, số 7/2025) đưa người đọc bước vào thế giới thơ về đề tài thương binh – liệt sĩ bằng một góc nhìn mới mẻ, giàu sức ám ảnh.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Đức Hạnh, nỗi niềm thành mây trắng
Cánh buồm thao thức trân trọng giới thiệu bài viết của TS, nhà thơ, nhà phê bình Lê Thành Nghị - một bài viết công phu, giúp người đọc soi chiếu tập thơ Khát cháy từ nhiều chiều, để người đọc khám phá một “hiện thực khác” giàu thi vị.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 22: “Một truyện ngắn dở như thế thì cãi nhau làm cái gì?”
Với góc nhìn của một người giàu trải nghiệm nghệ thuật, đạo diễn Lê Hoàng đã viết một status “thẳng ruột ngựa” về Trăm Ngàn: không quanh co, không xoa dịu, không hề sợ đụng chạm.
Xem thêm
Hà Thanh Vân: “Tôi đã định không nói gì thêm…” – Nhưng ai cho tôi yên đâu!
“Tôi đã định không nói gì thêm…” – nhưng rồi, như một tật xấu khó bỏ, TS Hà Thanh Vân lại tiếp tục viết.
Xem thêm
Từ motif cũ đến thông điệp nhân văn mới – một góc nhìn chuyên môn và cảm xúc
Theo PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh, từ motif cũ, cách kể cũ, Vũ Ngọc Thư vẫn mang đến một truyện ngắn tốt – nhờ biết giữ lại giá trị của những điều quen thuộc và gợi mở một cảm quan hiện đại về hậu chấn chiến tranh. Đặc biệt là cái nhìn đầy chia sẻ với người phụ nữ và trẻ em – những phận người thường bị khuất lấp sau vầng hào quang chiến thắng.
Xem thêm
Từ chuyện “Trăm ngàn” nghĩ về phê bình và giải thưởng văn chương
Bàn tròn Văn học xin giới thiệu hai góc nhìn từ nhà văn Nguyễn Quế và cử nhân Sử học, CCB Nguyễn Xuân Vượng – như thêm hai lát cắt cho tấm gương phản chiếu đời sống văn chương hôm nay.
Xem thêm
Phê bình cần lý trí và người viết cần lắm lòng nhân ái
Trong bài viết “Trăm Ngàn trước búa rìu dư luận” dưới đây, nhà văn Phan Thị Thu Loan không đứng về phe nào, chỉ chọn đứng về phía sự hiểu – và sẻ chia.
Xem thêm
Bàn tròn Văn học kỳ 15: Cuộc thi văn chương có bị “đánh cắp”?
Kỳ này trân trọng giới thiệu một số ý kiến tiêu biểu từ các nhà thơ, nhà văn – như một cách lan tỏa lòng yêu nghề, yêu sự thật và dám lên tiếng trước những điều bất minh:
Xem thêm
Minh bạch đến đâu là đủ? Và liệu chúng ta có đang đòi hỏi quá mức?
Mời bạn đọc cùng theo dõi bài viết của nhà văn Đặng Chương Ngạn — một tiếng nói tỉnh táo trong bão thông tin — và cùng Bàn tròn giữ vững tinh thần đối thoại xây dựng, công tâm, và văn minh.
Xem thêm
Đọc xong buồn... mà không hiểu vì sao tôi buồn
Một bài viết ngắn, không nặng lý luận, nhưng có sức truyền cảm – bởi nó được viết từ trải nghiệm, từ nhân cách và từ tình yêu thực sự với văn chương.
Xem thêm
Bàn tròn Văn học kỳ 12: Ai mê cứ mê, còn gã thì hổng mê truyện này!
Một bài viết dễ thương, đúng chất “báo bổ”, và cũng là một dư vị khác lạ góp vào mâm Bàn tròn lần này – nơi mà mỗi tiếng nói đều có giá trị khi được gửi gắm với tinh thần xây dựng và vì văn chương một cách chân thành.
Xem thêm
Bàn tròn Văn học kỳ 11: Rơi tõm vào vực thẳm…
Với tiêu đề gợi hình Rơi tõm vào vực thẳm…, bài viết không chỉ phản ánh nỗi hụt hẫng của người cầm bút, mà còn phơi bày sự sụp đổ âm thầm của niềm tin.
Xem thêm
Một góc nhìn có thể không thuận nhưng cần thiết
Bàn tròn Văn học kỳ 10 trở lại với một tiếng nói… không êm ái, thậm chí có phần khá gắt, nhưng đáng để đọc: TS. Hà Thanh Vân, người vẫn kiên trì với góc nhìn phân tích trên cơ sở một kiến văn đáng nể, và không né tránh các câu hỏi về chất lượng thực sự của một tác phẩm văn chương.
Xem thêm
Có nhất thiết phải “xài thuần Nam Bộ” thì mới gọi là truyện miền Tây?
Dưới góc nhìn của một người làm thơ nhưng không thiếu lý luận, bà đặt Trăm Ngàn vào những câu hỏi không dễ trả lời
Xem thêm