TIN TỨC
icon bar

“Nhân” và “nghĩa” với Sài Gòn trong thơ Đinh Nho Tuấn

Người đăng: nguyenhung
Ngày đăng: 2024-09-06 17:40:22
mail facebook google pos stwis
1200 lượt xem

TUẤN TRẦN

Thơ Đinh Nho Tuấn (ĐNT) luôn có cảm tưởng về sự phôi pha. Cho nên dấy lên cuộc lật trở cho níu giữ hôm nay. Thơ Đinh Nho Tuấn luôn gắn chặt con người với thời/không gian, nơi chốn, mối liên thông, cộng hưởng giữa người và vũ trụ được quan sát từ cụ thể đến trìu tượng, cận gần đến phóng nhãn tuyến ra xa.

Nghệ thuật là tiếng lặng của lịch sử trên dòng thời gian vồn vã hay mảnh vải tự nhiên mang nét thêu thùa của trí tưởng. Nghệ thuật thơ Đinh Nho Tuấn luôn là vậy. Tiếng thơ anh luôn âm thầm, thủ thỉ những lời tự thuật đẹp đẽ. Tiếng thơ anh có sự lênh đênh lưu lạc, chứa đựng một nỗi chìm lặn tìm cầu danh phận nơi xứ người. Cuộc đời như sợi dây thun, đàn hồi, co giãn, chùng căng như muốn đứt lìa mà chẳng được phân rã:

Hai thi phẩm còn chưa “ráo phím” viết về nhân nghĩa đất phương Nam mà ĐNT mới đăng đàn để lại cho tôi những dấu ấn nội tâm vô cùng sâu sắc. Trước hết, là sự đồng điệu của những kẻ mang tâm thức của “gió” phải “bay” như cánh chim trời khát tự do và tất nhiên phải “đối mặt” với cú “đùa ác” giữa bời bời không trung. Sài Gòn (SG), cao đẹp, mênh mông, bao la tình người và tài nguyên sinh tồn. Nhưng Sài Gòn cũng không “dễ dãi” tiếp nhận những đứa con. Luôn có những thử thánh, những đòn đau giáng xuống tấm thân trần của kẻ vô lực, buộc họ phải thấm đẫm nỗi đau của khát vọng tồn tại và đẹp đẽ. Khi đã đủ “mặt dày mày dạn” SG mới hiền hòa ôm mang…

Cảm tưởng khuôn mặt SG như gương mặt của tiền/ cố nhân. Những gương mặt từ chốn thân thiết từng lưu trú nơi tuổi thơ ám mộng. ĐNT tạo cảm gương mặt của hôm nay qua dung dáng xưa cũ. Gợi lại một miền neo đậu, một chữ “hiến nhân” trong sâu thẳm tấm lòng.

Khi tôi viết bài thơ về thành phố 

Tôi thường nghĩ về những ngôi sao đổi ngôi 

Lúc sáng và lúc tối 

Tựa những đời người 

 

Khuôn mặt Sài Gòn 

Sao phảng phất khuôn mặt ông bà, cha mẹ tôi đến thế 

Những xóm nghèo già nua, khắc khổ 

Những con rạch đăm chiêu 

Những đường gân xe chạy ngoằn ngoèo khu phố 

Đêm đêm 

Tiếng ầm ì hơi thở gian truân

Thơ ĐNT đã làm tốt và làm nốt nghĩa vụ lớn nhất của thi ca là thấu cảm chữ “Nhân”, nhân đạo hóa kiếp người và nhìn vào chiều sâu bi kịch, vào cõi tinh thần của nhân sinh. Bài thơ đã “chú mục” nỗi đau thế thái nhân tình. Hình tượng của gian truân kiếp người, nông nổi bọt bèo, của nhàu nhĩ, khắc khổ được gợi tả bắt chặt người và cảnh tạo nên cái bức bối của không gian, lẫn những đa sự mưu sinh.

Cảm xúc thơ được chuyển đổi một cách đột ngột mà rất duyên dáng, nhịp nhàng. Từ chữ hiếu sang chữ tình, từ cái thương xót, trân quý sang cái cái ngọt ngào, thấm đượm như hoa. ĐNT đã tìm ra trong cõi sống cằn cỗi đó nụ chồi của sự nâng niu, thưởng thức. Chút tình tri ân và cõi lòng cao đạo đã khiến ý thơ giàu “sinh quyển”. Như cánh chim gặp đà bay, đôi cánh rẻ lối đường mây:

Khuôn mặt khác của Sài Gòn

Là khuôn trang người tôi yêu khắc họa 

Lấp lánh hạnh phúc 

Tươi vui và mãnh liệt 

Tay em đầy dấu nắng khuya 

Lời của em, lời nào cũng gió 

Chồi biếc và màu xanh 

Mùa Xuân dệt em tơ lụa 

 

Khuôn mặt Sài Gòn

Lấp loá như bao khuôn mặt 

Còn in dấu 

Những ngày thăm thẳm đêm 

Ngày hồi sinh 

Phố xá rùng rùng đứng dậy 

Những công trình trẩy hội 

Chạy đua thời gian 

 

Tôi biết tôi đã áp khuôn mặt mình 

Vào hơi thở Sài Gòn, khuôn mặt 

Cái nắng, cơn mưa là vòng tay ôm chặt 

Bao phận người và tôi.

                                    (Gương mặt Sài Gòn)

Sang thi phẩm Thành Phố của tôi, Sài Gòn hiện ra trên thân như những “gánh”. Đặt trên thân người những nhọc nhằn mưa nắng. Nhưng đó là gánh mưu sinh, tình người, gánh hi sinh thầm lặng. Gánh cuộc đời trên “mình hạc xương mai”:

Sài Gòn 

Ăn nắng để xanh

Khoác mưa ấm gió 

 

Ban mai 

Bên quán xôi 

Nâng ly cà phê thơm nóng 

Những người lao động 

Trầm ngâm ngắm khuôn mặt mình 

 

Như bạn, tôi đến đây với đôi tay 

Thành phố không chê tôi quê kiểng 

Tôi được làm chính mình 

Người dang đôi cánh Hạc*

Chở che ước mơ tôi 

 

Thành phố của những thế hệ cha ông đời giăng trên đất 

Bằng mồ hôi, máu người Nam Trung Bắc 

Bằng tiếng khóc của bà mẹ chiến binh 

Tấm tức hơn ba thế kỷ 

Thời gian làm phương thuốc hồi sinh 

 

Những con đường rầm rì không chịu chui vào đêm 

Ánh trăng đẫm từng con phố 

Tựa ngàn xưa Sài Gòn khó ngủ 

Bài hát cũ long đong 

Trên cả hai phương diện, hiện thực và tâm thức. Người SG chưa bao giờ chui vào bóng tối. SG là sống về đêm, càng đêm tối càng phô bày ra ngàn tiếng nói hình sắc. Những thân phận đang cần mẫn mưu cầu dục vọng. SG là nơi con người tìm đến để sống trước đã rồi mới viết. Và khi sống đớn đau bao nhiêu thì con người càng da diết thiết đời bấy nhiêu.

Bài hát thức đêm 

Đồng hành cùng bàn tay khối óc 

Giọt giọt mồ hôi hoà mưa mặn chát 

Thức dậy những công trình

ĐNT đã nhìn SG trong đêm, để thấy được “ngã rẻ” thân phận, thấy sự giằng co thiện- ác. Thấy được bản chất thực sự của những con người, có đớn hèn, thanh cao. Có vinh, nhục, hận sầu. Nhưng “chân lý ở trên đầu nhân loại”. Trước thời gian, lòng người vẫn nương neo, trên gương mặt, bàn tay vẫn nổi những đường gân xanh nhưng nhức tình đời, tình người…

Sài Gòn 

Không mùa đông, mùa thu 

Hai vai mang hai bình nắng 

Hai bình mưa 

Nghiêng xuống những phận người thầm lặng.

"Nghiêng xuống bao phận người thầm lặng": Sài Gòn đã thầm thỉ nằm nghe mưa nắng, bão giông lịch sử. SG trong thơ ĐNT có "tịch dương phận người". Phải chăng! những nhịp điệu thời/ không bức bối, buồn thương đang âm thầm nuôi nấng khối sầu đẹp đẽ.

Hai bài thơ "phô bày" gương mặt SG trong đêm. Nỗi niềm kẻ đơn chiếc mưu sự. Những gương mặt đời úa nhợt thời gian. Những thân phận bán sinh bán tử trong vòng tròn niên hạn của cuộc sống. Sau tất cả, tiếng thơ bật ra tiếng rao lanh lảnh máu thịt của người giữa đời, của nhà thơ giữa chợ thời (bao lật trở, thăng giáng). Lặng lẽ, chiêm nghiệm, bao dung....

Ở đâu trên trái đất này! Không buồn, không khổ nói nghe coi? Hai bài thơ thở tan loãng tiếng hình người ngàn năm gọi khổ. Hình ảnh thơ nhìn vào cái sâu khuất, cái bi thương của những thân đày biệt xứ. Cũng chỉ có nơi văn chương, nỗi khổ niềm đau của con người mới được gọi tên, vỗ về, lắng nghe, thấu cảm. Bài thơ diễn ngôn về sự hình thịnh của SG hôm nay, từ những mặn chát của ngày hôm qua. SG trong thơ ĐNT cũng như "hợp chủng quốc" lấp lánh máu tươi và cả lệ sầu. Lấp lánh sự sống của bao lớp người Bắc/ Trung / Nam tựu về xây- chống, cất- nâng...

Hai bài thơ không dài nhưng đủ. Đủ để lòng người “hoang hoải”. Thấm lắng cái vị đời đắng đót và dấy lên niềm hạnh phúc tuột cùng bởi những “châu báu” mà đời sống trải nghiệm đã ban phát. Sau tất cả, SG đã ban ơn cho tác giả, cho anh, cho em, cho tôi, cho chúng ta. Cho những úa tàn, máu xương, nước mắt, tiễn biệt được kết tụ, đơm bông và nở ra những thơm thảo tình người từng ngụp lặn đáy bể. Sự cắt tỉa và ý thức gọt đẽo âm, hình, ý, vị đã tạo nên một diễn đạt mạnh mẽ, dứt khoát, cảm xúc được phô bày mạch lạc. Nỗi đau và niềm hạnh phúc trần tình phơi trải ra đầy lạc quan, thấm thiá như “bài ca rầm rì ru đêm”.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bàn tròn kỳ 34: Hư cấu nghệ thuật trong phim “Mưa đỏ”
Một tác phẩm nghệ thuật thành công không nằm ở việc tái hiện chính xác từng chi tiết, mà ở chỗ khơi dậy tình yêu nước và lòng biết ơn cha anh, để lịch sử tiếp tục sống động trong tâm thức nhiều thế hệ.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 33: Khi “cái kết nhân văn” đi nhanh hơn tâm lý nhân vật
Truyện muốn nhấn mạnh tình máu mủ nhưng lại quên rằng tình phụ tử cũng cần thời gian và sự bồi đắp. Khi sự hòa giải diễn ra quá nhanh, cái nhân văn mà tác giả mong muốn dễ trở thành “nhân văn nóng vội”, chưa kịp đi qua những ngập ngừng, day dứt – vốn là hơi thở của đời thường.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 32: Nguyễn Duy và tiếng chuông gọi tên mười loại phê bình
Bài văn tế đặc biệt của nhà thơ Nguyễn Duy – một lời cảnh tỉnh, một tiếng chuông thức tỉnh từ một thi sĩ từng trải
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 31: Trăm Ngàn – từ cẩu thả chữ nghĩa đến vụng về truyền thông
Lần này, chúng ta hãy nghe hai cây bút vốn được xem là “những kẻ lắm chuyện” – TS Hà Thanh Vân và nhà văn Đặng Chương Ngạn nói gì? Một người đào sâu từ góc độ truyền thông – giữa báo chí chính thống và mạng xã hội, một người lại lật tung những chi tiết cẩu thả và phi lý trong chính văn bản truyện.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 30: Khi ý tưởng bị đánh tráo
Bàn tròn Văn học kỳ 30 xin mời bạn đọc cùng đối thoại về câu chuyện này – không phải để truy cứu cá nhân, mà để suy nghĩ sâu xa hơn: văn chương sẽ đi về đâu, nếu lòng tin của người viết trẻ bị phản bội và lòng tin của công chúng bị bỏ rơi?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 29: Phản biện ẩn danh - Dũng khí hay sự né tránh?
Trong Bàn tròn kỳ này, câu chuyện nói về hiện tượng phản biện văn chương dưới những cái tên xa lạ, thậm chí là ẩn danh.
Xem thêm
Thi pháp của thơ ngắn – Trường hợp Mai Quỳnh Nam
Trong tất cả các thể loại văn học, thơ ca là nơi ưu tiên hàng đầu cho các hình thức ngắn gọn. Điều này không chỉ thể hiện ở độ dài khiêm tốn của các tập thơ mà còn nằm ở đặc trưng nội tại của thơ, vốn hướng đến sự cô đọng hơn so với các thể loại khác (như tiểu thuyết).
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 28: Minh bạch – từ chuyện nhỏ đến vấn đề lớn
Bàn tròn Văn học kỳ 28 không nhằm khơi gợi thị phi, càng không phải góp gậy góp đá “đánh hội đồng” một tổ chức nghề nghiệp mà chính “thư ký bàn tròn” này được vinh dự là hội viên.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 27: Công bằng trong xét giải - Từ quy chế đến thực tiễn
Giải thưởng văn học hằng năm của Hội Nhà văn Việt Nam đang đối diện một nghịch lý: quy chế một đằng, thực tế một nẻo.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” - Hành trình từ chiến trường đến nhân sinh
Lời ru bão giông của Trần Hóa không chỉ là một tập thơ, mà là bản hòa tấu của ký ức, trải nghiệm và những suy ngẫm về đời sống.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 26: Khi công bằng bị bỏ quên, im lặng trở thành câu trả lời
Bàn tròn Văn học kỳ này xin giới thiệu nội dung tóm lược của hai bức thư ngỏ – coi đó như một lời chất vấn trực diện, một thử thách đối với tính minh bạch và liêm chính của một cuộc thi văn chương quốc gia.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 25: Minh bạch là điều kiện sống còn của uy tín văn chương
Bàn tròn kỳ 25 chọn hai bài viết mới nhất của nhà văn Đặng Chương Ngạn về “thầy Uông” – thành viên Hội đồng Sơ khảo – như chất liệu để trao đổi thẳng thắn.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 24: Trăm Ngàn câu hỏi, một chữ Minh bạch
Xin mời bạn đọc cùng ngồi lại, để lắng nghe, để bàn luận, và biết đâu, để cùng trả lời câu hỏi day dứt: Liệu văn chương Việt có thể đứng thẳng bằng phẩm giá của nó, hay sẽ mãi lẫn lộn trong những “trăm ngàn” trò chơi lợi ích?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 23: Giải thưởng, danh hiệu và chuẩn mực văn chương hôm nay
Nếu ở các kỳ trước, chúng ta chủ yếu xoay quanh truyện ngắn Trăm Ngàn, thì lần này, hai ý kiến góp mặt mở rộng vấn đề sang một góc nhìn gai góc hơn: chuyện “lợi ích nhóm” trong đời sống văn học – nghệ thuật.
Xem thêm
Những câu thơ thức “canh chừng lãng quên”
Với cảm hứng từ hai tứ thơ độc đáo – Cõng bạn đi chơi của Vương Cường và Dìu mẹ đi thăm mộ mình của Hồ Minh Tâm – bài viết của Bùi Sỹ Hoa (đăng trên Tạp chí Sông Lam, số 7/2025) đưa người đọc bước vào thế giới thơ về đề tài thương binh – liệt sĩ bằng một góc nhìn mới mẻ, giàu sức ám ảnh.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Đức Hạnh, nỗi niềm thành mây trắng
Cánh buồm thao thức trân trọng giới thiệu bài viết của TS, nhà thơ, nhà phê bình Lê Thành Nghị - một bài viết công phu, giúp người đọc soi chiếu tập thơ Khát cháy từ nhiều chiều, để người đọc khám phá một “hiện thực khác” giàu thi vị.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 22: “Một truyện ngắn dở như thế thì cãi nhau làm cái gì?”
Với góc nhìn của một người giàu trải nghiệm nghệ thuật, đạo diễn Lê Hoàng đã viết một status “thẳng ruột ngựa” về Trăm Ngàn: không quanh co, không xoa dịu, không hề sợ đụng chạm.
Xem thêm
Hà Thanh Vân: “Tôi đã định không nói gì thêm…” – Nhưng ai cho tôi yên đâu!
“Tôi đã định không nói gì thêm…” – nhưng rồi, như một tật xấu khó bỏ, TS Hà Thanh Vân lại tiếp tục viết.
Xem thêm